Thứ Ba, 2 tháng 3, 2010

Quản lý Nhà nước về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam

http://vietnamnet.vn/chinhtri/201003/Van-de-quan-ly-bao-hiem-tien-gui-o-Viet-Nam-896896/
Cập nhật lúc 10:32, Thứ Tư, 03/03/2010 (GMT+7)

Năm 2009, Bộ Nội vụ đã trình Thủ tướng ban hành quyết định thay thế Quyết định số 75/2000/QĐ-TTg ngày 28/6/2000: Phê duyệt Điều lệ về tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Bài viết này thể hiện quan điểm của tác giả.


Bộ Nội vụ đề nghị lựa chọn phương án 2 - giao cho Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện đối với Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) Việt Nam.

Tuy nhiên, nếu thực hiện phương án này, sẽ nảy sinh những điều bất cập khi tác nghiệp cũng như trong quá trình quản lý. Do vậy, việc lựa chọn phương án nào cần phải được xem xét một cách thấu đáo để làm sao tổ chức BHTG thực hiện tốt nhất chức năng chủ đạo của mình, đó là bảo vệ người gửi tiền và góp phần duy trì sự ổn định hệ thống tài chính.

vmc
Bảo hiểm tiền gửi: Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

Trong khuôn khổ bài viết này, dưới góc nhìn và quan điểm của một luật sư, xin đề cập đến một số điều bất cập liên quan đến địa vị pháp lý và tính độc lập tương đối của tổ chức BHTG khi áp dụng phương án này.

Giám sát và bù đắp rủi ro tài chính

Các điều khoản của Điều lệ chưa thống nhất với các quy định tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP được sửa đổi bởi Nghị định số 109/2005/NĐ-CP về hoạt động của BHTG và một số văn bản pháp lý có giá trị cao hơn.

Theo quy định tại khoản 2 điều 5 của Nghị định 89/1999/NĐ-CP, Thủ tướng quyết định thành lập tổ chức bảo hiểm tiền gửi và phê chuẩn Điều lệ tổ chức và hoạt động. Nhưng theo phương án này, NHNN Việt Nam lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện đối với tổ chức BHTG. Nếu nói một cách hình ảnh một chút thì không khác gì một người thì khai sinh và một người khác lại có quyền quản lý.

Quyền hạn của Thống đốc NHNN Việt Nam trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật thành viên Hội đồng Quản trị (HĐQT), Tổng Giám đốc và Trưởng Ban Kiểm soát của tổ chức BHTG Việt Nam là một trong những ví dụ minh chứng cho hình ảnh nói trên.

Cũng trong chế định về bổ nhiệm, miễn nhiệm này còn có một sự mâu thuẫn nội tại của Điều lệ, đó là: Một trong những thành viên kiêm nhiệm của HĐQT là đại diện cấp vụ của Bộ Tài chính. Song vị đại diện này chỉ được hiện diện với tư cách là thành viên HĐQT của BHTG Việt Nam khi được Thống đốc NHNN Việt Nam bổ nhiệm.

Cũng trong Nghị định 89/1999/NĐ-CP, các vấn đề liên quan đến quản lý và hoạt động của tổ chức BHTG đều do Thủ tướng quyết định dựa trên cơ sở đề nghị của Bộ Tài chính hoặc/và ý kiến của NHNN, hoặc/và đề nghị của tổ chức BHTG. Tuy nhiên, theo quy định tại các hầu hết các điều khoản xuyên suốt của Điều lệ, NHNN Việt Nam được xác định rõ là cơ quan có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện đối với BHTB Việt Nam. Điều này đã làm cho Điều lệ trái với Nghị định 89/1999/NĐ-CP.

Nếu so sánh với Luật NHNN Việt Nam, ta sẽ thấy ở đây còn có sự mâu thuẫn và trái với văn bản có giá trị pháp lý cao hơn. Theo quy định tại điều 1 Luật NHNN Việt Nam, “…NHNN thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ; Hoạt động của NHNN nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa….”.

Trong khi đó, hoạt động của tổ chức BHTG, về bản chất vẫn dựa theo nguyên lý của hoạt động bảo hiểm. Đó là bù đắp rủi ro theo cơ chế lấy số đông bù cho số ít chứ không thuộc một trong các chức năng quản lý của NHNN.

Ngoài ra, BHTG còn có chức năng giám sát rủi ro, góp phần ổn định hệ thống tài chính. Do vậy, quy định trong Điều lệ BHTG chức năng của NHNN như là một cơ quan quản lý của BHTG - một chức năng về bản chất là thuộc về Chính phủ là trái với quy định của văn bản pháp lý cao hơn là Luật NHNN Việt Nam.

Ngay cả khi Luật NHNN được sửa đổi thì cũng phải xem xét đến yếu tố độc lập của BHTG mà cân nhắc xem có nên đưa chế định về BHTG trên góc độ quản lý nhà nước vào điều chỉnh tại Luật này hay không. Nếu nhìn từ góc độ kinh tế thì khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, đổ vỡ của ngân hàng, phạt hoặc trong quan hệ giữa BHTG với tư cách là chủ nợ đối với tổ chức tham gia BHTG, sẽ có xung đột về lợi ích xảy ra.

Trong mối quan hệ 3 bên này, người có quyền và lợi ích cần được BHTG bảo vệ là người gửi tiền. Do vậy, nếu điều chỉnh chế định quản lý tổ chức BHTG trong Luật NHNN và quy định quyền quản lý đó thuộc NHNN - ngân hàng của các ngân hàng - sẽ làm cho các quy định này trở nên trái với quy luật phát triển kinh tế. Vì vậy, tất cả các chế định về BHTG phải được điều chỉnh trong Luật BHTG - một đạo luật độc lập điều chỉnh các hoạt động độc lập, một địa vị pháp lý độc lập của tổ chức BHTG như bản chất vốn có của nó.

Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Áp dụng phương án này sẽ làm giảm tính độc lập tương đối của BHTG Việt Nam trong việc thực hiện chức năng bảo vệ người gửi tiền và duy trì ổn định hệ thống tài chính, theo báo cáo tại tờ trình số 3134/TTr-BNV ngày 24/09/2009 của Bộ Nội vụ.

Tại điều 1 của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP, hoạt động BHTG nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Với tinh thần này, bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền là mục tiêu hàng đầu của BHTG.

Nhiệm vụ của tổ chức này là bảo vệ quyền lợi của những người gửi tiền tại các ngân hàng và các định chế tài chính khác khi họ gặp rủi ro về tiền gửi. Do vậy, BHTG cần được hoạt động một cách độc lập, đặc biệt là độc lập đối với NHNN. Vì thế, BHTG không thể bị lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện bởi NHNN - “ngân hàng của các tổ chức tín dụng” như đã được quy định tại điều 1 của Luật NHNN Việt Nam. Điều đó sẽ làm giảm đi tính độc lập tương đối của BHTG Việt Nam.

Mô tả ảnh.
Giám sát rủi ro tài chính.

BHTG là tổ chức tài chính đặc biệt được Chính phủ thành lập. Xét đến cùng, bản chất và mục đích của nó là để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, đứng bên cạnh người gửi tiền và địa vị pháp lý của nó độc lập với hệ thống ngân hàng.

Hơn nữa, BHTG còn thực hiện chức năng giám sát đối với ngân hàng - tổ chức tham gia bảo hiểm. Để bảo vệ tốt người gửi tiền thì phải thực hiện tốt chức năng giám sát. Ngược lại, nếu giám sát tốt thì sẽ bảo vệ được quyền lợi của người gửi tiền ở mức độ tối đa. Làm tốt cả hai chức năng này sẽ góp phần giảm thiểu sự đổ vỡ của ngân hàng và bảo vệ tốt nhất người gửi tiền.

Mối quan hệ tương hỗ này càng thể hiện rõ vai trò độc lập của BHTG trong nền kinh tế. Làm tốt hai chức năng này thì niềm tin và uy tín của ngân hàng đối với người gửi tiền càng được củng cố - một yếu tố không thể thiếu trong hoạt động ngân hàng.

Hoạt động độc lập, minh bạch

Áp dụng phương án này sẽ làm cho hoạt động BHTG ở Việt Nam trái với “nguyên tắc cốt lõi phát triển hệ thống BHTG hiệu quả” của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (BCBS) và Hiệp hội bảo hiểm tiền gửi quốc tế (IADI).

Một trong số những nguyên tắc này là: “Tổ chức bảo hiểm tiền gửi cần hoạt động độc lập, minh bạch và có trách nhiệm giải trình và độc lập với những ảnh hưởng không mong muốn về chính trị và các ngành khác”.

Hiện nay, trên thế giới có hơn 100 quốc gia có hệ thống BHTG. Trong số này, hầu hết các tổ chức BHTG đều là một tổ chức độc lập và không trực thuộc Ngân hàng Trung ương. Ví dụ, tổ chức BHTG Liên bang của Hoa Kỳ (FDIC) là tổ chức hoạt động độc lập với Chính phủ và chịu sự kiểm soát của Quốc hội; TCT BHTG Hàn Quốc (KDIC) là tổ chức độc lập trực thuộc Chính phủ…

BHTG Việt Nam, muốn đạt được mục tiêu là hoạt động có hiệu quả của BHTG thì không thể đi trái với thông lệ quốc tế, trái với những bản chất và mô hình ưu việt mà các tổ chức BHTG thế giới trước đó đã áp dụng có hiệu quả.

Bảo đảm sự an toàn của hệ thống tài chính - tiền tệ

BHTG Việt Nam còn có một nhiệm vụ không thể thiếu, đó là bảo đảm sự an toàn của hệ thống tài chính - tiền tệ quốc gia, tránh đổ vỡ dây chuyền hoặc khủng hoảng. Do vậy, một tổ chức BHTG Việt Nam phải được độc lập thì mới phát huy hiệu quả trong việc thực thi nhiệm vụ của mình.

Báo cáo của Ngân hàng Thế giới sau khi nghiên cứu kinh nghiệm và số liệu của 1.700 ngân hàng trên 57 quốc gia đã đưa ra nhận định: “Ở những nước mà tổ chức BHTG có quyền can thiệp và chấm dứt BHTG thì các ngân hàng ổn định hơn và nguy cơ mất khả năng thanh toán thấp hơn. Tăng cường năng lực giám sát và thẩm quyền của tổ chức BHTG có thể tác động tích cực đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Sự độc lập về mặt pháp lý và vật lý của tổ chức BHTG là yếu tố quan trọng để có mạng lưới an toàn tài chính hiệu quả”.

Mục đích của BHTG là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Do vậy, khi tổ chức BHTG được độc lập thì hiệu quả của chính sách BHTG mới được củng cố và ngày càng được nâng lên. Như vậy, quyền lợi của người gửi tiền ngày càng được bảo vệ tốt hơn.

“Một hệ thống bảo hiểm tiền gửi được thiết kế cẩn trọng sẽ góp phần xây dựng lòng tin của công chúng trong hệ thống tài chính và nhờ vậy có thể hạn chế ảnh hưởng xấu gây ra bởi những ngân hàng gặp khó khăn”, đó là khuyến nghị của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (BCBS) và Hiệp hội bảo hiểm tiền gửi quốc tế (IADI).

Thiết nghĩ, BHTG Việt Nam cũng cần đảm bảo tính độc lập để thực hiện tốt sứ mệnh của Chính phủ giao cho, đó là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và góp phần duy trì ổn định hệ thống tài chính; cần có những chế định, những hành lang pháp lý cần thiết để điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của nó.

Như vậy, Luật Bảo hiểm tiền gửi cần nhanh chóng được thông qua cùng với sự ra đời của các văn bản hướng dẫn, có xem xét đến tính độc lập như bản chất vốn có của nó, xem xét đến mối quan hệ với các luật liên quan như Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Phá sản…

  • Luật sư Đặng Thị Dung

Đừng lạm dụng từ thị trường

Đừng lạm dụng từ thị trường

TP - Từ thị trường, nền kinh tế thị trường, cơ chế thị trường bị lạm dụng hơi nhiều ở Việt Nam ta. Bao nhiêu vấn đề tiêu cực được đổ tại cơ chế thị trường, dù thực sự là do chính sách tồi gây ra, do cơ quan nhà nước không làm tốt công việc của mình, thậm chí, không làm việc của mình mà đi làm việc người khác.

Cơ chế hoạt động cho thị trường bất động sản vẫn cần sự can thiệp của Nhà nước

Người ta bàn về lạm phát, về điều chỉnh giá điện, than,v.v, cũng lại mang thị trường ra để biện bạch một cách lạ lùng.

Có thể liệt kê vô vàn thí dụ về sự lạm dụng (hay nói nhẹ hơn, thiện chí hơn, là nói về sự kém hiểu biết hay lầm lẫn trong sử dụng khái niệm, vì “lạm dụng” hàm ý họ hiểu kỹ khái niệm và cố ý dùng sai đi để bao biện thì có thể hơi nặng).

Chỉ xin nêu một thí dụ nóng hổi khi “giải mã lạm phát”, một tờ báo đưa tin một ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội nói rằng:

“Chúng ta thường nói với nhau là xây dựng một nền kinh tế thị trường, tôn trọng quy luật của thị trường, vậy thì giá điện hay giá mặt hàng nào đó tăng hay giảm đều phải chấp nhận (nếu nó đúng với quy luật thị trường). Nghệ thuật điều hành của Chính phủ ở chỗ đầu vào là kinh tế thị trường nhưng đầu ra là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Không rõ báo có viết đúng ý ông hay không. Nếu không đúng như vậy, báo nên cải chính và xin lỗi ông, và ông cũng nên nói lại cho dư luận được rõ. Còn nếu phải, tôi xin bàn luận sự nhầm lẫn về vai trò và cái khái niệm đầu vào và đầu ra khá lạ này.

Cơ chế thị trường là cơ chế vận hành của một nền kinh tế do tác động của các quan hệ cung cầu hình thành tự phát trên thị trường chứ không phải do Nhà nước quy định bằng các biện pháp hành chính.

Nếu có cạnh tranh lành mạnh, cơ chế thị trường hoạt động hiệu quả và ít cần đến can thiệp của Nhà nước. Muốn có cạnh tranh lành mạnh, phải có ít nhất 2-3 người bán sàn sàn nhau, không câu kết với nhau.

Nhiệm vụ của Nhà nước là phải tạo ra môi trường pháp luật thuận tiện cho cơ chế thị trường hoạt động (thí dụ bằng các luật Doanh nghiệp, luật Thương mại, luật Phá sản, các Luật thuế, luật Cạnh tranh, v.v.) đảm bảo các thoả thuận tư đã được các bên ký kết phải được thực hiện nghiêm chỉnh (luật trọng tài, luật dân sự, hoạt động của các toà án, v.v.).

Hai mươi năm qua Việt Nam đã làm được rất nhiều để cơ chế thị trường hoạt động, song còn nhiều việc phải làm nữa.

Ngay cả trong trường hợp cơ chế thị trường hoạt động suôn sẻ, vẫn có nơi cạnh tranh bị hạn chế do độc quyền (dẫu là độc quyền tự nhiên, như bán lẻ điện và nước), do tác động ngoại lai, hay do các lý do khác mà cơ chế thị trường có nhiều khuyết tật và cần sự hoạt động của các cơ chế phi thị trường (mà can thiệp của Nhà nước là một trong số các cơ chế phi thị trường đó).

Cơ chế thị trường không hoạt động tốt ở các thị trường này. Ngay cả ở các thị trường nơi cơ chế thị trường hoạt động tốt, các cơ chế phi thị trường vẫn hoạt động. Vấn đề là mức độ hoạt động, nơi nó có nhiều khuyết tật thì cần cơ chế khác hoạt động mạnh hơn.

Không có sự đối lập giữa cơ chế thị trường và các cơ chế phi thị trường. Thay vào đó, chúng bổ sung cho nhau.

Một trong những cơ chế phi thị trường là cơ chế can thiệp của Nhà nước. Lẫn lộn và đối lập chúng với nhau, không phân biệt rõ thì rất dễ dẫn đến lạm dụng từ ngữ để biện bạch cho cái sai của chính mình.

Ít khi người làm sai lại nhận mình đã sai, nên việc lạm dụng để biện bạch như vậy cũng dễ hiểu. Nhưng để trong hiểu biết chung của dân và của các quan chức cấp cao nhầm lẫn như vậy thì lại là tai họa cho đất nước.

Xin nêu thí dụ về các thị trường nơi cơ chế thị trường nhiều khuyết tật và nhà nước có vai trò to lớn (làm thế nào, thí dụ bằng biện pháp hành chính, hoàn thiện các cơ chế phi thị trường khác, hay thông qua các cơ quan điều tiết độc lập, hoặc sự kết hợp chúng, v.v, là chuyện khác chưa bàn ở đây):

Thị trường điện, thị trường than ở ta hiện nay là như vậy, độc quyền, một người bán vạn người mua. Không có sự cạnh tranh giữa những người bán.

Chính vì thế viện dẫn đến thị trường, quy luật thị trường ở đây là hoàn toàn sai, là từ bỏ nhiệm vụ rất quan trọng của Nhà nước (kể cả khi có cơ quan điều tiết năng lượng độc lập cũng vậy).

Nếu có ba ông sàn sàn nhau, không thể cấu kết với nhau cùng bán than, thì câu chuyện lại khác (đấy là việc của Nhà nước phải làm). Cho nên trong trường hợp cụ thể của chúng ta hiện nay về than và điện (và nhiều lĩnh vực khác liên quan đến môi trường, y tế, giáo dục), đừng vin vào cơ chế thị trường để biện bạch cho việc Nhà nước làm không tốt việc của mình.

Để cơ chế thị trường vận hành đúng quy luật thị trường đối với than, ông TKV muốn định giá nào thì định (các ông độc quyền cũng hay lạm dụng từ thị trường lắm đấy).

May là Nhà nước Việt Nam chưa hoàn toàn nghe theo ý của ông quan chức nói trên và để họ làm như vậy.

Cho nên cách “giải mã lạm phát” của quan chức cao cấp đó của một uỷ ban quan trọng của Quốc hội nêu ở đầu bài (nếu thông tin được khẳng định là đúng) liên quan đến giá than và giá điện là hết sức sai lầm.

Khỏi phải bàn về khái niệm lạ kỳ “đầu vào là kinh tế thị trường” và “đầu ra là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”. Tôi hy vọng báo đưa không chính xác lời ông nói.

Nguyễn Quang A

Nếu ai cũng sợ bị “chụp mũ”

Nếu ai cũng sợ bị “chụp mũ”

"Nếu ai cũng sợ bị "chụp mũ", nếu chỉ có một trung tâm độc quyền phát ra chân lý, nếu cấp dưới chưa có thói quen dám tranh luận với cấp trên, không dám suy nghĩ bằng cái đầu của mình vì còn sợ "mất đầu" thì tình trạng lạc hậu về nhận thức lý luận ở nước ta còn kéo dài" - ý kiến của GS.TS Dương Phú Hiệp, nguyên Phó Viện trưởng Viện Triết học, nguyên Tổng thư ký Hội đồng lý luận Trung ương.

Vấn đề "nhạy cảm" hay là sự né tránh trách nhiệm

Tranh luận sòng phẳng

Cá nhân ông từng là người tham gia soạn thảo một số văn kiện Đại hội Đảng, ông có ưu tư gì để công tác xây dựng, lấy ý kiến của người dân đạt hiệu quả ngày càng cao hơn?

- GS. TS Dương Phú Hiệp: Bắt đầu từ Đại hội VI, các văn kiện đã được đưa ra để lấy ý kiến nhân dân, việc làm này là rất cần thiết và rất đáng hoan nghênh nhưng theo tôi nên có cách xử lý đổi mới vì nếu nó chỉ dừng lại ở tính hình thức, tính tuyên truyền thì không có nhiều ý nghĩa thực chất.

Người chuẩn bị văn kiện ĐH khi đã đưa ra hỏi ý kiến thì phải biết lắng nghe, thực sự cầu thị. Hỏi ý kiến ở đây là hỏi thật, nghe là nghe thật và phải tổ chức công việc tiếp nhận, phản hồi rõ ràng và cần một không khí tranh luận sòng phẳng.

Cứ theo tiêu chuẩn lớn nhất là "ích nước lợi dân". Vấn đề gì lớn tiếp thu thì nói rõ ra, cái này chúng tôi xin tiếp nhận để đưa vào, hoặc cái này thì tiếp thu nhưng xin để nhiệm kỳ sau hoặc nếu không tiếp nhận thì vì sao.

Ban soạn thảo phải phân công người đọc và nên có trả lời đăng rộng rãi trên báo chí chứ không phải từng người. Điều đó sẽ chứng tỏ rằng Đảng có trách nhiệm với những người đóng góp ý kiến, từ đó củng cố thêm lòng tin của người ta, lần sau người ta hăng hái đóng góp tốt hơn.

Nếu nhiều ý kiến được gửi lên mà không có sự phản hồi thì đó là một sự mất lịch sự, làm mất niềm tin của những người có thiện chí đóng góp.


Ngoài ra, ban soạn thảo cần nghiên cứu xác định được những vấn đề lớn của mỗi kỳ ĐH để đưa ra tranh luận, mỗi ĐH nên tập trung bàn một vài vấn đề lớn mà nếu gỡ được cái này là gỡ được nhiều cái khác.

Chúng ta không nên bàn quá nhiều, mất quá nhiều thời gian cho những vấn đề còn lý luận xa xôi. Thay vào đó, việc lựa chọn vấn đề của mỗi ĐH nên sát với thực tế hơn, phải xuất phát từ thực tế chứ không phải xuất phát từ lý luận, mà như vậy thì nhân dân cũng dễ góp ý.

Ví dụ như ĐH X, chúng ta tập trung tranh luận đảng viên có được làm kinh tế tư nhân không. Phải tranh luận cho ra nhẽ để đưa ra được quyết định cuối cùng. Như thế mới có hiệu quả và đem lại những lợi ích to lớn.

Cầu thị

Ý của ông là rất cần những người có trách nhiệm lắng nghe thực sự cầu thị, chân thành?

Sự thành thực rất quan trọng, như nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu khi đương chức có lần xuống nói chuyện ở Viện Khoa học Xã hội, đã nói một câu rất chân thành: "Trong ĐH VIII có một câu là, nhận thức của chúng ta về CNXH và con đường đi lên CNXH ngày càng sáng rõ ra, nhưng riêng tôi vẫn chưa thấy rõ lắm".

Lối tư duy không tin nhân dân, không dám nói thẳng, nói thật những khó khăn thiếu sót và sai lầm của Đảng trước nhân dân đã trở thành cách suy nghĩ lỗi thời.

Câu nói đó phần nào cho thấy sự thành thực, thẳng thắn và cầu thị của ông. Vì vậy, chúng tôi cũng không ngần ngại gì trong việc đóng góp ý kiến của mình.

Nghĩa là khi mình muốn nghe góp ý thì phải chấp nhận có người nói dễ nghe, người nói khó nghe. Phát biểu trái với lãnh đạo, trái với nghị quyết chưa chắc đã sai. Ông là lãnh đạo, tôi nói trái với ông rồi ông bảo tôi sai, thế thì độc quyền chân lý à?

Sai hay đúng thì thực tiễn sẽ trả lời vì thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, là điểm xuất phát, đồng thời cũng là điểm cuối cùng để kiểm nghiệm chân lý.

Ông từng là thành viên nhóm tư vấn của cố Tổng Bí thư Trường Chinh trong quá trình chuẩn bị cho Đại hội VI, chắc ông cũng có nhiều kỷ niệm đáng nhớ?

Hồi tôi ở trong nhóm tư vấn của cố TBT Trường Chinh thì anh em cũng đóng góp ý kiến một cách rất thẳng thắn. Ông Trường Chinh mặc dù là cán bộ cao cấp như thế nhưng rất biết lắng nghe các ý kiến từ các nhà khoa học, đặc biệt là các ý kiến trái chiều.

Một người chân thành muốn nghe thì mình cũng chân thành phát biểu mà không e ngại gì cả. Ai cũng có thể đúng, có thể sai nhưng đã tham khảo ý kiến người ta thì sai đúng gì cũng phải nghe đã, còn quyết định cuối cùng lại là chuyện khác.

Tôi nhớ một buổi chiều đồng chí Trường Chinh nói hôm nay tôi hỏi các đồng chí một câu thôi, các đồng chí trả lời không cần lập luận nhiều: Bao giờ kết thúc chặng đường đầu tiên và bao giờ kết thúc thời kỳ quá độ ở Việt Nam?

Mỗi người đưa những mốc thời gian khác nhau, đến lượt tôi thì tôi trả lời là không biết vì lý lẽ của tôi là phải xem đường lối của Đảng như thế nào đã, chứ nếu như hiện nay thì có thể dẫm chân tại chỗ hoặc có thể bị lùi lại thêm nữa.

Hồi bấy giờ có nhiều ý kiến khác nhau lắm. Ý kiến khó nhất là đánh giá đường lối của ĐH IV, ĐH V tiếp tục đường lối đó, bây giờ ĐH VI phải xử lý thế nào.

Đường lối đại hội của Đảng ta vẫn luôn luôn nói là đúng nhưng thực tế lại dẫn đất nước vào khủng hoảng là vì sao?

Một luồng ý kiến giải thích rằng đường lối đúng nhưng nhận thức chưa đúng. Người Việt Nam cũng thông minh, nói như vậy thì ở Việt Nam này ai nhận thức đúng? Người soạn thảo ra đường lối phải có trách nhiệm làm cho người khác hiểu đúng đường lối chứ!

Luồng ý kiến thứ hai thì bảo đường lối đúng nhưng chưa cụ thể hóa thành những chính sách đi vào cuộc sống. Thế thì các Hội nghị BCH Trung ương Đảng hàng năm họp mấy lần nếu không cụ thể hóa đường lối trong khóa ấy thì làm gì?

Luồng ý kiến thứ ba lại lý luận là đường lối đúng, chính sách đúng, cụ thể hóa đúng nhưng việc tổ chức thực hiện kém. Tôi bảo, nếu cái gì nó hay, đúng với tâm lý của quần chúng thì cứ vạch ra là người ta tự động theo. Giống như bài hát mà hay thì chinh phục người nghe nhanh lắm, chẳng cần phải dạy, chỉ cần nghe một vài lần người ta cũng thuộc, không hay thì anh cứ cò cưa mãi trên đài cũng chả vào gì cả.

Tranh luận với cấp trên

Từng giữ cương vị Tổng thư ký Hội đồng Lý luận Trung ương, ông nghĩ sao về những đòi hỏi mới của công tác nghiên cứu lý luận ngày hôm nay?

Tôi nhớ lúc Hội đồng Lý luận Trung ương khi thảo luận dự thảo Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về công tác tư tưởng và công tác lý luận, tôi có bảo là hai cái này không nên nhập làm một.

Công tác tư tưởng hay tuyên huấn là phải tuyên truyền đúng như nghị quyết đã nói, không được nói trái, còn công tác lý luận thì có chức năng khác. Nó cho phép nói khác, nói trái chiều thì mới mong đi tìm cái mới, đi tìm chân lý được.

Chúng ta cần tạo ra bầu không khí dân chủ trong nghiên cứu khoa học, cho phép các nhà khoa học có quyền nói và viết những suy nghĩ của mình. Nếu không cho người ta nói trái với ý của mình thì chẳng bao giờ có tiến bộ trong lý luận, khoa học được cả.

Ở nước ta, do chưa có truyền thống dân chủ, chưa có thói quen tranh luận, nhất là tranh luận với cấp trên, thì việc mở rộng bầu không khí dân chủ trong xã hội, nhất là trong sinh hoạt đảng, trong nghiên cứu khoa học là một trong những điều kiện để khắc phục tình trạng lạc hậu về nhận thức lý luận.

Nếu quan liêu hóa công tác nghiên cứu lý luận, nếu ai cũng sợ bị "chụp mũ", nếu chỉ có độc thoại, không có đối thoại, nếu chỉ có một trung tâm độc quyền phát ra chân lý, nếu cấp dưới chưa có thói quen dám tranh luận với cấp trên, chỉ thụ động "gọi dạ, bảo vâng", không dám suy nghĩ bằng cái đầu của mình vì còn sợ "mất đầu" thì tình trạng lạc hậu về nhận thức lý luận còn kéo dài.

Chúng ta cần tạo ra bầu không khí dân chủ trong nghiên cứu khoa học, cho phép các nhà khoa học có quyền nói và viết những suy nghĩ của mình. Nếu không cho người ta nói trái với ý của mình thì chẳng bao giờ có tiến bộ trong lý luận, khoa học.

Trong Báo cáo Chính trị tại ĐH VI của Đảng, tư duy biện chứng duy vật đã được thể hiện trong việc đánh giá tình hình bằng cách "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật".

Còn lối tư duy không tin nhân dân, không dám nói thẳng, nói thật những khó khăn thiếu sót và sai lầm của Đảng trước nhân dân đã trở thành cách suy nghĩ lỗi thời.

Trong một thời kỳ dài đã từng tồn tại lối tư duy lạ lùng: chỉ nói đến những mâu thuẫn trong chủ nghĩa tư bản, còn trong chủ nghĩa xã hội thì hình như không có mâu thuẫn. Tư duy mới là tư duy dám nói đến những mâu thuẫn hiện thực trong chủ nghĩa xã hội và tìm cách giải quyết đúng đắn các mâu thuẫn đó, không e ngại, che giấu mâu thuẫn.

Tuy nhiên, tôi thấy rằng trong những năm qua, chúng ta không những chậm phát hiện mâu thuẫn mà còn chậm giải quyết mâu thuẫn. Đổi mới tư duy chính là phải khắc phục tình trạng đó.