Thứ Sáu, 24 tháng 9, 2010

Công hữu đất đai không hợp với thời quá độ

http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-09-20-cong-huu-dat-dai-khong-hop-voi-thoi-qua-do
Bài học "cưỡng bức" hiện tại


Trong những ngày đầu ĐỔI MỚI, Đảng và Nhà nước đã ban hành một quyết định dũng cảm, mang tính bản lề tạo nên thành công, đó là chính sách giao đất sản xuất nông nghiệp do các hợp tác xã nông nghiệp đang sử dụng cho hộ gia đình để sử dụng ổn định lâu dài. Chính sách này đã đưa nước ta từ tình trạng thiếu lương thực trở thành một trong 3 nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.

Như trên biểu đồ về giá trị sản xuất nông nghiệp dưới đây, có thể thấy từ năm 1991 trở đi mức tăng trưởng của sản xuất nông nghiệp khá đều đặn với khoảng hơn 5 nghìn tỷ đồng tăng thêm mỗi năm (theo giá so sánh năm 1994).


Giá trị sản xuất nông nghiệp theo giá so sánh 1994 (tỷ đồng) sau ĐỔI MỚI (1990-2009)

Để có được quyết định quan trọng này, cũng phải trải qua một quá trình nhận thức nhất định và cũng đã có cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh phải chịu thiệt thòi như Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc. Từ thực tiễn, ai cũng thấy được tổng sản lượng canh tác của các hộ gia đình trên 5% diện tích ruộng được hợp tác xã giao cho sử dụng riêng còn cao hơn sản lượng canh tác trên 95% diện tích ruộng do hợp tác xã tổ chức sử dụng chung.
Nhìn vào bản chất của sự việc, có thể thấy người nông dân chưa vứt bỏ được tư duy tư hữu đã chất chứa từ hàng nghìn năm nay ở vùng nông thôn nước ta.

Phương thức sản xuất tập thể theo mô hình hợp tác xã cần tới một trình độ cao về tổ chức sản xuất, tư duy mới về công nghiệp hóa trong nông nghiệp nhưng lãnh đạo các hợp tác xã ở nông thôn ta chưa có được.

Cũng chính tính tư hữu đã tạo ra tình trạng tham nhũng nặng nề trong bộ máy lãnh đạo các hợp tác xã nông nghiệp. Lúc đó, câu ca dao mới "mỗi người làm việc bằng hai, để cho cán bộ mua đài mua xe" gần như phổ biến ở khắp các miền quê.

Phương thức sản xuất tập thể theo mô hình hợp tác xã đã mất động lực, người nông dân tập trung vào chăm lo cho mảnh đất 5% của mình. Hầu hết các nhà lý luận kinh tế chính trị đã có giải thích rằng quan hệ sản xuất tập thể trong nông nghiệp chưa phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất còn nhỏ nhoi, lạc hậu nên phải đổi mới quan hệ sản xuất. Cần chuyển từ mô hình hợp tác xã sang mô hình hộ gia đình. Đây là một giải thích rất đúng đắn.

Chắc chắn rằng trong xã hội đã đạt được điều kiện của xã hội xã hội chủ nghĩa thì mô hình sản xuất hợp tác xã nông nghiệp có hiệu quả cao hơn mô hình sản xuất hộ gia đình. Lúc đó, ngoài các điều kiện về hạ tầng cần có, người nông dân phải có nhận thức tốt về tổ chức sản xuất lớn, biết hạn chế lại tư hữu để nâng cao hiệu quả của hợp tác chung, có thu nhập cao để chủ động loại trừ tham nhũng trong khâu phân phối lợi ích.

Khi chưa đạt được những điều kiện của xã hội xã hội chủ nghĩa này thì mô hình sản xuất hợp tác xã nông nghiệp không những không tạo được hiệu quả mà còn tạo nên tình trạng thiếu lương thực.

Một sự việc tương tự nhưng ở tầm vĩ mô hơn đã xẩy ra vào năm 1991 là việc Đảng và Nhà nước ta tiếp tục ban hành một quyết định quan trọng thứ hai: thay thế cơ chế kinh tế bao cấp - chỉ huy tập trung bằng cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế kinh tế có điều khiển đó chỉ có thể phát huy được ưu việt khi đã đạt được các điều kiện của xã hội xã hội chủ nghĩa. Cơ chế kinh tế tự điều chỉnh mới phù hợp với điều kiện hạ tầng, con người trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Từ thực chứng lịch sử này, có thể rút ra bài học kinh nghiệm: sự tốt đẹp trong tương lai không thể cưỡng bức phải tốt đẹp ngay trong hiện tại khi hiện tại chưa có đủ điều kiện để tạo nên sự tốt đẹp đó, sự cưỡng bức này thường gây ra hậu quả ngược lại và cái giá phải trả là thời gian bị kéo lùi. Tiền nhân đã có câu "dục tốc bất đạt" là vì lẽ đó.

Điều chúng ta mong muốn trong tương lai chỉ có thể thành tựu được khi hiện tại được sắp xếp đúng quy luật, điều mong muốn đó sẽ đến nhanh hơn.

Công hữu đất đai không hợp với thời quá độ


Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai của nước ta được quy định trong Hiến pháp từ năm 1980, dựa trên lý luận kinh tế chính trị học xã hội chủ nghĩa là các tư liệu sản xuất chủ yếu đều được công hữu hóa. Đất đai là một loại tư liệu sản xuất chủ yếu nên phải thuộc chế độ công hữu mà ta gọi là sở hữu toàn dân. Điều này là hợp lý vì trong nền sản xuất xã hội xã hội chủ nghĩa không thể tồn tại một tầng lớp người là chủ đất, không thực hiện đầu tư trên đất mà chỉ thu lợi từ việc cho nhà đầu tư thuê đất (chủ đất thu toàn bộ địa tô tuyệt đối từ nhà đầu tư).

Đất đai thuộc chế độ công hữu thì xóa bỏ được việc thu tư lợi từ địa tô tuyệt đối. Xác lập được đúng đắn chế độ công hữu về đất đai là tạo được sự bình đẳng giữa mọi người đối với quyền được tiếp cận đến đất đai và quyền hưởng dụng đất đai.

Chế độ công hữu về đất đai trong xã hội xã hội chủ nghĩa cần phải được hiểu đúng nghĩa là mọi quyền chiếm hữu, định đoạt, sử dụng đều thuộc Nhà nước, Nhà nước cho mọi người có nhu cầu sử dụng đất thuê đất có thời hạn, người thuê đất phải trả địa tô tuyệt đối cho Nhà nước.

Trong thời gian qua từ 1987 tới nay, việc xây dựng pháp luật về đất đai đã phải đối mặt với những khó khăn rất lớn đặt ra giữa chế độ công hữu về đất đai trong xã hội xã hội chủ nghĩa ở thì tương lai và hoàn cảnh xã hội hiện tại chưa đủ điều kiện là một xã hội xã hội chủ nghĩa. Luật Đất đai 1987 đã được xây dựng rất nghiêm túc trên cơ sở chế độ công hữu về đất đai.

Ảnh: dotsquangtri.gov.vn
Luật Đất đai 1993 tiếp tục giữ vững nguyên tắc cơ bản của chế độ công hữu này, mọi loại đất đều được sử dụng có thời hạn nhưng đã cho phép hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất được thực hiện 5 quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, cho thuê đối với quyền sử dụng đất trong thời hạn sử dụng nhằm tạo sự phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Về bản chất, các quyền này thực hiện trong thời hạn sử dụng đất không làm mất đi nguyên tắc cơ bản của chế độ công hữu về đất đai.
Năm 1994, Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo cơ sở chính trị cho quá trình phát triển kinh tế công nghiệp và dịch vụ. Nhu cầu sử dụng đất cho các doanh nghiệp tăng lên rất cao, kèm theo những đòi hỏi về quyền của các nhà đầu tư đối với đất đai và nhu cầu mở rộng chế độ sử dụng đất đối với đất phi nông nghiệp.

Quốc hội đã quyết định thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai vào năm 1998 với nhiều quy định trái với nguyên tắc của chế độ công hữu đối với đất đai. Thứ nhất là đất ở được sử dụng vô thời hạn.

Thứ hai là nhà đầu tư cũng được giao đất sử dụng vô thời hạn trong trường hợp thực hiện các dự án xây dựng kinh doanh nhà ở và trường hợp được Nhà nước đổi đất lấy cơ sở hạ tầng.

Thứ ba là tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có chế độ sử dụng vô thời hạn được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, góp vốn đối với quyền sử dụng đất.

Trên thực tế, đây không phải là khuyết điểm của các nhà xây dựng luật pháp lúc đó mà là sự thiếu phù hợp của chế độ công hữu về đất đai trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Năm 2003, Quốc hội đã thông qua Luật Đất đai lần thứ ba, mục tiêu đầu tiên là xác định chi tiết nội hàm của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. Tức là, xác định cụ thể quyền lực và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước thực hiện quyền sở hữu toàn dân về đất đai, xác định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất thực hiện quyền sở hữu toàn dân về đất đai.

Nhà nước có quyền quyết định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quyết định về thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thông qua các quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, gia hạn sử dụng đất; quyết định về giá đất trên nguyên tắc phù hợp với giá đất hình thành trên thị trường.

Người sử dụng đất là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, góp vốn đối với quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

Tới lúc này, nội dung về các quyền cụ thể của Nhà nước và của người đang giữ đất đối với đất đai có liên quan đến quyền sở hữu về đất đai ở nước ta và các nước tư bản không khác nhau nhiều lắm.

Chúng ta đang đi theo hướng mở rộng chế độ công hữu về đất đai để chuyển một phần sang tư hữu, các nước tư bản đã và đang đi theo hướng thu hẹp quyền sở hữu tư nhân về đất đai để chuyển một phần sang công hữu. Sự khác nhau chỉ còn ở 2 điểm: một là có sự khác nhau về tên gọi của chế độ sở hữu đất đai (đây là khác nhau về hình thức); hai là Nhà nước ta có quyền thu hồi đất do người này đang sử dụng để giao cho người khác sử dụng khi chưa hết hạn sử dụng đất (đây là khác nhau về nội dung).

Như vậy, trong thời gian gần 15 năm qua kể từ ngày ĐỔI MỚI, pháp luật về đất đai đã buộc phải đổi mới để vượt qua những khó khăn thực tế do chế độ công hữu về đất đai không phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất với nhiều thành phần kinh tế đang tạo nên phát triển.

Những đổi mới đó đã vi phạm các nguyên tắc cơ bản của chế độ công hữu về đất đai nhưng những đổi mới đó là bức thiết vì chế độ công hữu về đất đai là không phù hợp với giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Còn nữa



Vì sao chủ đầu tư không mặn mà?

http://sgtt.vn/Kien-truc-doi-song/Chi-tiet/129892/Vi-sao-chu-dau-tu-khong-man-ma.html
SGTT.VN -Quan điểm chung của nhiều doanh nghiệp hiện nay đó là căn hộ giá thấp khó thực hiện, nhưng không phải không làm được. Tuy nhiên, do những bất cập trong các quy định hiện hành, khiến cho việc thực hiện dự án nhà giá thấp khó thực hiện.

Theo các doanh nghiệp, muốn có quỹ đất sạch hoặc đất rẻ thì phải về vùng sâu. Nhưng nếu về vùng sâu, nhiều khi chi phí thành phẩm của căn hộ lại cao hơn giá đất nền khu dân cư hiện hữu ven đô, nên doanh nghiệp không dám mạo hiểm đầu tư. Bên cạnh đó, hầu hết các doanh nghiệp cho rằng, muốn xây được nhà giá rẻ, cần có quỹ đất lớn và phải xây thấp tầng để kéo đơn giá xây dựng xuống thấp. Tuy nhiên, nếu làm theo cách này, quỹ đất lại không đáp ứng được, cho nên, rất khó thực hiện dự án nhà giá thấp.

Ưu đãi nhiều, nhưng không mặn mà

Theo ông Lê Quốc Duy, tổng giám đốc công ty cổ phần nhà Hoà Bình, công ty đang chuẩn bị triển khai dự án nhà thu nhập thấp tại xã Long Thới, huyện Nhà Bè, với mức giá bán dự kiến từ 7 – 8 triệu đồng/m2. Theo ông Duy, giá khó có thể giảm thêm được vì hiện nay, riêng đơn giá xây dựng cho một chung cư có chất lượng trung bình đã là vào khoảng từ 5 – 6 triệu đồng/m2, chưa kể giá đất. Chủ đầu tư một dự án nhà giá rẻ ở TP.HCM cho biết, để có thể xây nhà ở giá thấp tại TP.HCM tương tự như Vinaconex xây ở Xuân Mai với giá từ 4 – 5 triệu đồng/m2, là rất khó khả thi. Bởi vì, các căn hộ này đã được xây dựng với nhiều lợi thế như: Vinaconex làm chủ công nghệ bêtông đúc sẵn của mình; khu vực sản xuất bêtông đúc sẵn ngay bên cạnh dự án; chi phí vận chuyển chuyên chở thấp; giá đất khu vực rẻ...

Để được chấp nhận chủ trương đầu tư dự án bất động sản nói chung, ngoài việc gặp khó khăn về thủ tục, mất nhiều thời gian, doanh nghiệp còn phải chi phí rất tốn kém và chịu nhiều biến động rủi ro trong thi công. Do đó, nếu chỉ lãi 10% trong thời gian dài đầy rủi ro, nên không doanh nghiệp nào dám thực hiện. Do đó, nếu xin được đất, nếu đầu tư vào dự án nhà ở thương mại, doanh nghiệp sẽ có lãi gấp hàng chục lần, tính thanh khoản cũng cao hơn so với làm nhà ở xã hội. Bên cạnh đó, về việc ưu đãi vốn, doanh nghiệp khó tiếp cận được nguồn vốn vay, do mới chỉ có ngân hàng Phát triển Việt Nam triển khai cho vay xây dựng nhà ở xã hội, với hơn 7.000 tỉ đồng. Do chưa có nguồn vốn ưu đãi, nên khi đầu tư xây dựng nhà ở xã hội, doanh nghiệp buộc phải vay ngân hàng. Với lãi suất hiện tại là 1,3 – 1,5%/tháng, nếu đầu tư, doanh nghiệp sẽ bị lỗ do chỉ thu tiền nhà với lãi suất thấp hơn rất nhiều lần.

Nhà ở xã hội cho thuê

Trước thực trạng đang vướng mắc về cơ chế khiến các dự án nhà xã hội chậm trễ, nhiều ý kiến cho rằng, nên phát triển mô hình nhà ở xã hội cho thuê.

Theo ông Lê Hoàng Châu, chủ tịch hiệp hội Bất động sản TP.HCM, giải pháp nhà ở xã hội cho thuê sẽ giúp những người làm công ăn lương, những người thu nhập thấp có điều kiện tiếp cận với môi trường sống tốt hơn. Nếu thực hiện mô hình nhà cho thuê, chắc chắn sẽ có khung giá thấp hơn nhiều so với giá thuê thực tế. Cũng theo ông Châu, để mô hình này khả thi, có thể quy hoạch ở những vùng ven để giảm giá thành, nhưng quan trọng là phải đủ lớn để trở thành những đô thị thực sự. Tính khả thi của những dự án này không khó, với nguồn quỹ đất và tài chính của thành phố hiện nay có thể thực hiện được ngay.

Bảo Chương – Tùng Quang

Lập quỹ tiết kiệm nhà ở

Bộ Xây dựng đang đề xuất với các cấp lãnh đạo về việc thành lập quỹ tiết kiệm nhà ở. Theo đó, tất cả những người đi làm có thu nhập đã có nhà, hoặc chưa có nhà, có nhu cầu mua nhà, hay không có nhu cầu mua nhà đều trích nộp quỹ với mức 1% thu nhập hàng tháng. Lượng tiền của mỗi người đóng góp vào quỹ là không nhiều, song toàn xã hội hưởng ứng tham gia thì số tiền là cực lớn. Đây sẽ là một nguồn vốn dài hạn không hề nhỏ để dành cho các doanh nghiệp, các chủ đầu tư các dự án nhà ở xã hội và đặc biệt là những người có nhu cầu mua nhà vay vốn để đầu tư xây dựng, hoặc mua nhà với lãi suất hợp lý. Đối với người đóng quỹ, khi về hưu, ai không có nhu cầu vay mua nhà thì lấy lại số tiền đã đóng nhân với lãi suất hàng năm.

Thứ Năm, 23 tháng 9, 2010

Nhà nước không nên vừa đẵn vừa vác

http://www.sgtt.com.vn/Goc-nhin/129790/Nha-nuoc-khong-nen-vua-dan-vua-vac.htm
Sài Gòn Tiếp Thị phỏng vấn ông Thang Văn Phúc, nguyên thứ trưởng bộ Nội vụ.

Gần đây một số học giả dùng khái niệm “nhà nước lớn, xã hội nhỏ” để chỉ thực trạng Việt Nam hiện tại. Vì sao mà vai trò của Nhà nước vẫn lớn vậy dù chúng ta đã cải cách 25 năm rồi?

Hiện nay Nhà nước vẫn còn ôm một khối lượng công việc quá lớn mà chưa thoát ra được. Chúng ta đã chuyển sang kinh tế thị trường nhưng có nhiều lúng túng. Nhà nước vẫn sợ là đưa nhiều thứ ra ngoài cho tư nhân làm thì không yên tâm, không lo được cho dân, rồi lại tạo ra bất bình đẳng tiếp. Mới thị trường hoá một số dịch vụ công thôi mà đã sợ người dân đã không chịu được. Ví dụ, như trong ngành giáo dục, cho tư nhân đầu tư thì họ phải có lãi chứ.

Hơn nữa, các nhà làm chính sách của ta có phải của nền kinh tế thị trường đâu. Họ toàn xuất phát từ cơ chế cũ sang và mới chuyển nhờ thực tiễn gần đây.

Những lĩnh vực gì mà Nhà nước có thể chuyển cho khu vực tư nhân làm?

Nhiều lắm. Tất cả các khu vực dịch vụ công là Nhà nước có thể chuyển cho khu vực tư nhân, xã hội làm. Nhà nước chỉ làm chính sách, pháp luật, và giám sát xã hội thực hiện. Chứ Chính phủ không nên làm người vừa đẵn vừa vác như thời kinh tế tập trung, lo từ A đến Z. Bây giờ Chính phủ không nên làm thế. Nhà nước chỉ cần giữ lại những ngành, lĩnh vực cần thiết trọng yếu, hay tư nhân không muốn đầu tư.

Chúng ta phát hiện hết những vấn đề này nhưng làm sao giải quyết là đại sự. Mà lời giải không thể là bình thường được, phải có tính cách mạng. Mà ngay cả các nước tư bản cũng khó, họ có mấy trăm năm để xử lý những vấn đề đó.

Trong bình diện hiện nay, ông thấy lĩnh vực nào Nhà nước nắm giữ đang gây bức xúc xã hội nhất và cần thu hẹp vai trò lại?

Doanh nghiệp nhà nước (DNNN)! Khu vực này phải thu hẹp lại. Không thể để 1.500 DNNN mà lại giữ tới 70% tài sản. Nhà nước chỉ giữ mức độ thôi để đáp ứng những vai trò mà tôi vừa nói. Phải bán, khoán, cho thuê và cổ phần hoá khối doanh nghiệp này. Những chủ sở hữu tư nhân mới vẫn sống trên đất nước này, họ đóng thuế cho Nhà nước.

Gần đây Nhà nước đã cho tư nhân làm nhiều thứ. Ví dụ trong giao thông vận tải, tư nhân đã được cho phép khai thác sử dụng, hay trong viễn thông không chỉ có mình VNPT. Nhưng thế vẫn chưa đủ. Ví dụ, ngành điện phải đa dạng hoá chứ sao lại cứ để mãi cái anh EVN độc quyền. Nếu không cạnh tranh thì không thể phát triển được.

Hơn nữa, ngân sách vẫn dùng để bao cấp cho các DNNN. Các ngân hàng của Nhà nước vẫn phải theo chỉ dẫn của các bộ, ngành, hay Chính phủ cho các DNNN vay. Ví dụ mấy ngân hàng lớn buộc phải cho Vinashin vay. Nếu họ có nợ hay gì đó thì Nhà nước phải trả nợ. Nợ là chuyện của Nhà nước chứ đâu phải của các ông DNNN đâu. Tức là Nhà nước vẫn chịu tránh nhiệm. Cơ chế đó chưa thoát. Ta phải làm sao giải phóng được việc này.

Theo ông, những vấn đề chính của hệ thống công vụ là gì?

Trong ba năm qua có 16 ngàn viên chức bỏ việc. Con số này thấp hơn nhiều so với số người mới, bình quân tăng gần 100 ngàn người tương ứng với 5%. Nhưng đáng lo là phần lớn trong những người bỏ việc là có trình độ cao ở khu vực công, làm ở ngân hàng, tài chính, quản trị doanh nghiệp, chứ không phải người lao động thường đâu. Ta tinh giảm bộ máy nhưng số người lại tăng lên.

Tôi nghĩ công chức nên có sự dấn thân, quyết liệt. Ngày xưa trong chiến tranh ta dám đi dù chết, nay vì sự hưng thịnh của đất nước thì cần dấn thân. Có nhiều bất cập, mâu thuẫn thì công chức cần cùng nhau giải quyết, chứ không thể chờ vào ai. Càng không thể nhờ vào nước ngoài. Tất cả cái thiên hạ cho đều có giá hết, không trả cái này thì phải trả cái kia.

Tuy nhiên, những người giỏi muốn cống hiến phải được trọng dụng, chứ không phải chủ nghĩa bình quân như thế này. Tôi giỏi, làm được việc mà cứ bị mấy ông đồng nghiệp chả có tí sáng kiến nào phê phán suốt thì làm sao làm được.

Có cần cam kết chính trị cao để giải quyết những trở lực này?

Ngày nay đã có nhận thức rất rõ là phải đảm bảo cho công chức đủ sống và xác định vấn đề này là trọng điểm xử lý. Chúng ta có chủ trương rồi, nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII có rồi (biểu thị quyết tâm chính trị lớn về cải cách hành chính, đặt cải cách hành chính trong tổng thể của đổi mới hệ thống chính trị – PV). Nhưng từ đó đến nay đã mười năm mà chúng ta vẫn không làm được. Rất lúng túng.

Mà vai trò của Nhà nước vẫn còn rất lớn. Ví dụ, đầu tư công của Nhà nước vẫn còn rất lớn mà Nhà nước vẫn ôm. Hiện nay đầu tư công ở ta hơn 40% GDP là cao quá, các nước khác chỉ có 20 – 25% GDP thôi. Phải làm sao cơ cấu lại mức chi đó và rộng hơn là phải cải cách cơ cấu chi tiêu công.

Nhưng Nhà nước có từ bỏ được không? Bảo cắt sự nghiệp công để xã hội hoá cũng làm nửa vời. Ví dụ, trước chuyển trường bán công thành tư thục, thì nay lại trở về trường công. Tức là quyết tâm chính trị có, chủ trương có nhưng không nhất quán, không kiên quyết thực hiện. Đấy là quyết tâm không cao của cả hệ thống.

Tư Giang (thực hiện)

Pháp điển hóa, tại sao không?

11:38 (GMT+7) - Thứ Tư, 22/9/2010
http://vneconomy.vn/2010092211370388P0C5/phap-dien-hoa-tai-sao-khong.htm

Làm thế nào để biết quy định nào còn hiệu lực trong “mớ bòng bong” của hệ thống pháp luật vô cùng phức tạp, rối rắm hiện nay?



Làm thế nào để biết quy định nào còn hiệu lực trong “mớ bòng bong” của hệ thống pháp luật vô cùng phức tạp, rối rắm hiện nay?

Nhiều ý kiến cho rằng hình thành bộ pháp điển cho hệ thống pháp luật Việt Nam chính là một biện pháp giúp giải quyết tình trạng nói trên.

Khốn khổ với “rừng” luật

Ông Phùng Văn Hùng, Giám đốc Trung tâm Thư viện và Nghiên cứu khoa học của Văn phòng Quốc hội, ví hệ thống pháp luật hiện nay giống như một khu rừng mà trong đó trung bình mỗi năm lại “mọc” thêm 4.000 văn bản quy phạm pháp luật. Với khối lượng đồ sộ như vậy, lại liên tục thay đổi do đang trong quá trình hoàn thiện, hệ thống pháp luật gây rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm và xác định hiệu lực của các quy định, văn bản.

Có những văn bản mà theo luật sư Trần Mạnh Hùng thuộc chi nhánh Công ty Luật Baker & Mckenzie tại Việt Nam, ngay cả luật sư không phải ai cũng biết. Đó phần nhiều là những công văn mang tính hướng dẫn của một bộ, ngành nào đó.

Ví dụ như công văn của Tổng cục Thuế giải thích Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 04-Tài sản cố định vô hình ban hành kèm theo Quyết định 149/2001/QĐ-BTC của Bộ Tài chính. Theo văn bản này, thương hiệu không được ghi nhận là tài sản và vì vậy không được góp vốn bằng thương hiệu. Trong khi đó, nhiều văn bản quy phạm pháp luật lại thừa nhận giá trị thương hiệu, tuy nhiên theo luật sư Hùng, “nếu không biết công văn nói trên thì rất có thể luật sư sẽ tư vấn sai”.

Tìm văn bản đã khó, làm thế nào để phân biệt giá trị pháp lý của từng điều khoản, từng văn bản đó lại là chuyện mà theo luật sư Hùng có thể gây nên một “cơn ác mộng” thực sự cho người sử dụng. Một trong những nguyên nhân dễ thấy chính là do tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật.

Một ví dụ được ông Trần Mạnh Hùng dẫn chứng là quy định về việc thành lập doanh nghiệp có vốn sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài. Điều 9, Nghị định 139/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định: nếu sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài chiếm 49% vốn điều lệ thì thủ tục thực hiện theo Luật Doanh nghiệp. Trong khi đó, điều 50 Luật Đầu tư lại quy định: nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư tại Việt Nam phải có dự án đầu tư và đăng ký để được cấp giấy chứng nhận đầu tư.

Công văn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì hướng dẫn khác: nhà đầu tư nước ngoài chiếm dưới 49% vốn điều lệ vừa vẫn phải có dự án đầu tư và đăng ký để được cấp giấy chứng nhận đầu tư và vừa phải tuân theo các thủ tục quy định tại Nghị định 139/2007/NĐ-CP! “Đó là chưa kể 64 tỉnh thành phố trên cả nước với mỗi nơi thực hiện một kiểu”, ông Hùng than thở.

Luật sư Hùng dẫn thêm một ví dụ liên quan đến Thông tư 13/TT-BKHĐT ngày 8/10/1997 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Văn bản này quy định về phí quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với nguồn dẫn chiếu là Luật Đầu tư nước ngoài và Nghị định 12/CP hướng dẫn Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

Tuy nhiên, cho đến nay chưa có bất kỳ một văn bản nào tuyên bố chấm dứt hiệu lực của Thông tư 13/TT-BKHĐT và văn bản này vẫn được áp dụng mặc dù Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Nghị định 12/CP đã bị bãi bỏ. Sở dĩ có chuyện trái khoáy như vậy là do chưa thống nhất hoặc còn nhiều bất hợp lý trong cách quy định về hiệu lực của văn bản pháp luật.

Khoản 4, điều 78, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 quy định: “Văn bản hướng dẫn thi hành của văn bản hết hiệu lực cũng đồng thời hết hiệu lực với văn bản đó, trừ trường hợp được giữ lại toàn bộ hay một phần vì còn phù hợp với các quy định của văn bản mới”. Điều đó có nghĩa bản thân văn bản thì hết hiệu lực nhưng toàn bộ hay một phần nội dung văn bản đó có thể vẫn còn hiệu lực!

Hoặc ngược lại, có văn bản quy định: “Các quy định trước đây trái với văn bản này đều bị bãi bỏ”. Điều này có thể suy ra rằng chỉ có quy định cũ trái với văn bản mới bị bãi bỏ, còn bản thân văn bản cũ nếu có những nội dung không trái hoặc khác với văn bản mới thì chưa chắc đã hết hiệu lực. Như vậy, giá trị pháp lý của văn bản cũ đến mức nào? Có được đưa ra để áp dụng không?... Quả là rối rắm và khó hiểu!

Thu về một mối?

Ông John Bentley, cố vấn trưởng pháp luật của dự án Star Việt Nam, cho rằng để giúp cho việc sử dụng văn bản pháp luật dễ dàng, thuận lợi thì giải pháp hữu hiệu nhất vẫn là pháp điển hóa hệ thống pháp luật. Tức là cập nhật, hệ thống hóa và gom tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực về một đầu mối, thay vì tản mạn, rối rắm như hiện nay.

Ông John Bentley cho biết tình trạng “rừng luật” hiện nay ở Việt Nam cũng chẳng khác gì ở Mỹ trong thời kỳ sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933. Để khắc phục khủng hoảng, hoạt động của các cơ quan lập pháp và lập quy được đẩy mạnh đến mức các văn bản pháp luật gần như bùng nổ và không thể kiểm soát.

Đỉnh điểm của tình trạng này là vào năm 1934 một công dân đã bị tòa xử oan trong khi quy định của pháp luật về tội này đã hết hiệu lực (vụ “dầu nóng” nổi tiếng). Dưới sức ép của người dân, năm 1937 luật về pháp điển hóa đã được ban hành.

Theo đó, tất cả các quy định còn hiệu lực nằm rải rác ở các văn bản pháp luật được một ủy ban có trách nhiệm rà soát và hệ thống hóa lại trong Bộ Pháp điển và bộ pháp điển này được sử dụng, có giá trị pháp lý thay thế cho các văn bản pháp luật nói trên. Bộ Pháp điển thoạt đầu có 15 tập với 50 đề mục khác nhau và đến nay đã lên tới 234 tập. “Bộ Pháp điển cho phép tra cứu rất nhanh chóng, tiện lợi các quy định pháp luật còn hiệu lực để thi hành. Nó thông dụng tới mức người dân Mỹ sinh ra một tật... xấu là sống không thể thiếu pháp điển”, ông John Bentley kể.

Hầu hết các chuyên gia pháp lý đều ủng hộ ý tưởng về một bộ pháp điển cho hệ thống pháp luật của Việt Nam. Luật sư Trần Mạnh Hùng gọi đây là “một giấc mơ”. Còn ông Phạm Hồng Quất, Phó chánh thanh tra, Bộ Khoa học và Công nghệ thì cho rằng pháp điển hóa sẽ giúp tăng cường tính minh bạch của hệ thống pháp luật, làm cho chúng dễ tiếp cận hơn với nhiều đối tượng. Đặc biệt, quá trình thực hiện pháp điển hóa sẽ giúp phát hiện và loại bỏ các quy định chồng chéo, mâu thuẫn, từ đó hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Tuy nhiên, việc triển khai và áp dụng vào Việt Nam như thế nào cho phù hợp vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi. TS. Nguyễn Ngọc Điện, Phó hiệu trưởng Đại học Kinh tế - Luật thuộc Đại học Quốc gia Tp.HCM, băn khoăn: nếu bộ pháp điển được công nhận có giá trị pháp lý thay thế các văn bản pháp luật thì hóa ra trao quyền ban hành luật cho cơ quan pháp điển?

Ông Điện cho biết khác với Mỹ, ở châu Âu bộ pháp điển do các chuyên gia chọn lọc, tập hợp, chú giải, hay nói cách khác là do tư nhân làm chứ không phải việc của nhà nước. Tuy nhiên, mặc dù chỉ được xem là nguồn tài liệu tham khảo nhưng chúng vẫn có giá trị sử dụng rất cao nếu chất lượng về nội dung tốt. Ông Điện đề nghị nên cân nhắc giữa hai trường phái Mỹ và châu Âu để có một giải pháp phù hợp với điều kiện của nước ta.

Một ý kiến băn khoăn khác là với tình trạng pháp luật thay đổi liên tục như ở Việt Nam thì liệu có khả năng để xây dựng bộ pháp điển? Theo ông Phùng Văn Hùng, Giám đốc Trung tâm Thư viện và Nghiên cứu khoa học của Văn phòng Quốc hội, nơi từng triển khai một dự án thí điểm xây dựng bộ pháp điển do Ủy ban Châu Âu tài trợ, đây chỉ là khó khăn mang tính kỹ thuật và hoàn toàn có thể khắc phục được.

Ví dụ, bộ pháp điển có thể chia thành nhiều tập của từng năm và trong khi chờ tập mới ra đời cơ quan pháp điển có thể ban hành những tập phụ lục để cập nhật các văn bản mới. Ông Hùng cho rằng điều quan trọng lúc này là cần tập trung nghiên cứu kinh nghiệm của các nước, từ đó tìm ra các phương án khả thi cho Việt Nam. Trên cơ sở đó, Chính phủ sẽ đề xuất một dự án luật về pháp điển hóa để Quốc hội đưa vào chương trình xây dựng pháp luật. Theo ông, một đạo luật như vậy là rất cần.

Nguyên Tấn (TBKTSG)

Phát hành đại chúng... cưỡng ép

HOÀNG THẠCH LÂN
10:28 (GMT+7) - Thứ Tư, 22/9/2010

http://vneconomy.vn/20100922102156867P0C7/phat-hanh-dai-chung-cuong-ep.htm
Ở thị trường chứng khoán Việt Nam, người viết tạm gọi nhiều trường hợp phát hành đại chúng trên sàn là phát hành cưỡng ép. Vì sao?



Về lý thuyết, có ba cách phát hành tăng vốn: phát hành riêng lẻ, đấu giá ra bên ngoài và phát hành đại chúng.

Ba cách phát hành này có những đặc trưng riêng và phù hợp với từng hoàn cảnh của doanh nghiệp lẫn điều kiện cho phép của thị trường chứng khoán, nhưng trong 3 cách đó, phát hành đại chúng có vẻ dễ thực hiện nhất, đặc biệt nếu doanh nghiệp đã niêm yết trên sàn.

Công ty Cổ phần Quốc Cường Gia Lai (mã QCG-HOSE) và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nam Việt (mã NVB-HNX) là 2 trường hợp nổi tiếng nhất xét từ góc độ phát hành ngay sau khi niêm yết. NVB lên sàn vài hôm là có ngày chốt quyền mua cổ phiếu mới, tỷ lệ 100:98,9 giá 10.000 đồng/cổ phiếu.

Ở thị trường chứng khoán Việt Nam, người viết tạm gọi nhiều trường hợp phát hành đại chúng trên sàn là phát hành cưỡng ép. Vì sao?

Cưỡng ép, tức là bắt người ta phải làm cái gì đó, không có lựa chọn. Trong trường hợp phát hành đại chúng, cưỡng ép có nghĩa là bắt nhà đầu tư phải mua cổ phiếu phát hành thêm. Cho dù tại những thời điểm nhất định, với mức giá cổ phiếu nhất định..., một nhà đầu tư có thể không mua, nhưng nhìn chung thì tỷ trọng số lượng không mua rất thấp.

Đứng từ góc độ tổ chức phát hành, từ cưỡng ép có lẽ mới là từ đáng dùng, tức là về tổng thể luôn luôn có người nắm giữ cổ phiếu, do đó luôn luôn có người phải đóng tiền mua cổ phiếu mới. Sự thành công của đợt phát hành loại này có xác suất khá cao và công ty niêm yết có thể kiểm soát được bằng cách điều chỉnh giá phát hành sao cho “nhà đầu tư không mua không được”.

Như trường hợp của QCG: quyền mua 1:1 giá 15.000 đồng/cổ phiếu, ngày giao dịch không hưởng quyền: 24/8/2010, giá đóng cửa ngày 23/8 là 36.000 đồng/cổ phiếu. Như vậy giá tham chiếu ngày 24/8 sẽ giảm còn = ((1 x 36) + (1 x 15)) / (1 + 1) = 25,5 nghìn đồng/cổ phiếu, so với giá ngày 23/8 thì “giảm” = 25,5 – 36 = -10,5 nghìn đồng/cổ phiếu, tương đương giảm 29,2%.

Sẽ không ai bị thiệt hại 29,2%, do đây chỉ là động tác điều chỉnh kỹ thuật, nhưng nếu một nhà đầu tư nào bỏ quyền mua (có tên trong danh sách nhưng đến hạn đóng tiền thì bỏ), thì ngay lập tức cái thiệt hại -29,2% này sẽ chuyển từ ảo thành thật. Ai dám bỏ quyền?

Đứng từ góc độ một người đang nắm giữ cổ phiếu QCG, anh ta có thể không mua cổ phiếu mới bằng cách bán số cổ phiếu cũ trước ngày giao dịch không hưởng quyền và qua ngày đó thì mua lại, hoặc nếu anh ta tính rằng mức thiệt hại do bỏ quyền không còn là giảm 29,2% mà chỉ là giảm 5% (nếu giá phát hành là 32.500 đồng/cổ phiếu thì mức thiệt hại như cách tính trên sẽ là giảm 4,86%) thì có thể anh ta cũng bỏ luôn, hy vọng rằng trên sàn cổ phiếu QCG sớm tăng giá bù cho mức lỗ đó.

Tuy nhiên như đã nói, đứng ở góc độ công ty phát hành thì luôn phải có người đóng tiền mua cổ phiếu mới. Giá phát hành càng chênh lệch thấp hơn nhiều thị giá tại ngày giao dịch không hưởng quyền thì mức “thiệt hại” do bỏ quyền sẽ càng lớn, tức là xác suất người ta bỏ quyền sẽ càng thấp. Cưỡng ép là ở chỗ đó.

Trường hợp QCG nói trên (số cổ phiếu đang lưu hành trước khi chốt quyền là hơn 60 triệu CP), cũng vẫn có ai đó “bỏ của chạy lấy người”, nhưng số tiền công ty thu được chắc vẫn rất cao, ít ra cũng đạt hơn 90% của số tiền = 60triệu cổ phiếu x 15.000 đồng/cổ phiếu = 900 tỷ đồng. Nói cách khác, QCG sẽ “lấy” bớt từ sàn giao dịch thứ cấp gần cỡ 810 - 900 tỷ đồng, một đợt phát hành quá thành công cho công ty đang cần vốn!

Và để đạt thành công này, yếu tố quyết định chính là sự chênh lệch giữa cái giá phát hành với thị giá sát ngày giao dịch không hưởng quyền, và yếu tố phụ là công ty phải... lên sàn (không lên sàn thì làm sao nhà đầu tư biết chênh lệch giá mà tính được thiệt hại?).

Cũng có rủi ro cho tổ chức phát hành là càng gần ngày giao dịch không hưởng quyền, thị giá cổ phiếu càng rớt về gần giá phát hành, khi đó nguy cơ bỏ quyền sẽ càng cao. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng vẫn có thể có những chiêu thức thức như “ém sẵn” thông tin tốt để công bố sát ngày đẩy giá lên, hoặc chấp nhận phát hành với giá thấp hơn cả thư giá và thậm chí về tới mệnh giá.

Cho nên dạo này cho dù thị trường suy giảm, giá cổ phiếu có bị “đạp xuống bùn đen” thì công ty niêm yết vẫn phát hành tăng vốn, với giá phát hành = 10.000 đồng/cổ phiếu cho chắc ăn. Nếu kết hợp phát hành quyền + thưởng thêm cổ phiếu (hay trả cổ tức bằng cổ phiếu) thì càng dễ thành công.

Nhà đầu tư đang đổ lỗi cho công ty niêm yết khi bảo rằng họ (công ty niêm yết) đã phát hành pha loãng quá nhiều. Thực tế khó mà trách họ được, do việc phát hành kiểu này "dễ ăn" quá. Từ trước đến giờ Luật Chứng khoán không bắt buộc cứ phải có dự án mới được phép phát hành, mà chỉ cần lấy lý do tái cấu trúc tài chính, tăng vốn lưu động, mua vài ba cái máy cày, máy xúc, mua đất, góp vốn cho công ty khác, hay đơn giản là tăng vốn điều lệ là cũng có thể được phát hành.

Phát hành như vậy đâm ra quá tiện lợi, lấy được tiền của thiên hạ thì cứ lấy, đâu cần thu đủ tiền, được đồng nào hay đồng nấy đối với một số công ty cũng là thành công rồi.

Trở lại với trường hợp các ngân hàng như NVB. Quy định tăng vốn điều lệ của nhà nước đang là một thách thức lớn cho các ngân hàng thương mại khi thời hạn chỉ còn vài tháng. Mà để tăng vốn được qua kênh riêng lẻ, tìm đối tác chiến lược đâu dễ, vẫn mất rất nhiều thời gian và thủ tục cho dù có bán với giá bằng mệnh giá, chưa tính đến yếu tố cạnh tranh. Đấu giá cũng vậy.

Do đó, sớm lên sàn và phát hành liền như NVB có lẽ lại đang là lối ra cho chính ngân hàng. Đây cũng có thể là một trường hợp cho các ngân hàng khác noi theo chăng?

Thứ Ba, 21 tháng 9, 2010

So sánh ngoài dự án

TS. Võ Kim Cương
Thứ Tư, 15/9/2010, 17:10 (GMT+7)
http://www.thesaigontimes.vn/Home/diendan/ykien/40221/
(TBKTSG) - Dự án đề cập trong bài này là dự án đầu tư nói chung (theo Luật Đầu tư) và dự án đầu tư xây dựng công trình theo Luật Xây dựng. Khi đầu tư, chủ đầu tư phải lập dự án để xem xét, đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội làm cơ sở cho việc ra quyết định đầu tư.

Cơ sở để quyết định đầu tư vào đâu

Đối với một doanh nghiệp, khi có sẵn một nguồn tài chính, việc cân nhắc đầu tiên là “cần đầu tư vào đâu?”. Để trả lời câu hỏi này, chủ doanh nghiệp buộc phải so sánh nhiều hướng khác nhau như đầu tư vào kinh doanh xây dựng bất động sản, hay vào kinh doanh hàng hóa, hay đơn giản là mua chứng khoán.

Đối với một thành phố hay một quốc gia, chính quyền vốn sinh ra là để huy động và sử dụng mọi nguồn lực phục vụ việc xây dựng và bảo vệ đất nước cũng phải cân nhắc việc “đầu tư vào đâu” như vậy. Dựa trên cơ sở nào để quyết định việc đầu tư vào đâu?

Các chủ doanh nghiệp cũng như Nhà nước (Quốc hội, Chính phủ hay chính quyền các cấp) đều cần có đủ thông tin để chọn hướng đầu tư hay quyết định chủ trương đầu tư. Trong khi đó, nội dung của dự án đầu tư theo Luật Xây dựng chỉ là những thông tin về dự án.

Cụ thể, tại điều 37 Luật Xây dựng, nội dung chủ yếu của phần thuyết minh là những thông tin sau: “Mục tiêu, địa điểm, quy mô, công suất, công nghệ, các giải pháp kinh tế kỹ thuật, nguồn vốn và tổng mức đầu tư, chủ đầu tư và hình thức quản lý dự án, hình thức đầu tư, thời gian, hiệu quả, phòng chống cháy nổ, đánh giá tác động môi trường”. Có thể thấy các thông tin trong thuyết minh dự án là những thông tin sau khi đã có quyết định về chủ trương đầu tư.

Đối với các công trình xây dựng có quy mô lớn, theo Luật Xây dựng: “Trước khi lập dự án đầu tư xây dựng công trình phải lập báo cáo đầu tư để trình cấp có thẩm quyền cho phép đầu tư”. Nội dung báo cáo đầu tư bao gồm sự cần thiết đầu tư, dự kiến quy mô đầu tư, phân tích lựa chọn sơ bộ về công nghệ, xác định sơ bộ tổng mức đầu tư, phương án huy động nguồn vốn, khả năng hoàn vốn và trả nợ, tính toán sơ bộ hiệu quả về mặt kinh tế - xã hội...

Có thể thấy các nội dung này chủ yếu vẫn là những thông tin về bản thân dự án, ngoại trừ thông tin về “sự cần thiết phải đầu tư”. Những thông tin sơ bộ về dự án và nội dung thuyết minh về sự cần thiết phải đầu tư chỉ để trả lời câu hỏi: “Có nên đầu tư dự án này hay không?”, chứ chưa trả lời được câu hỏi: “Cần đầu tư vào đâu?”.
Để trả lời câu hỏi: “Cần đầu tư vào đâu?” phải so sánh hiệu quả của các dự án với nhau, đó là sự so sánh ngoài dự án.Hãy lấy dự án đường sắt cao tốc được Quốc hội thảo luận trong kỳ họp vừa qua làm ví dụ. Ta có thể thấy có 4 cấp so sánh lựa chọn phương án chính:

1. So sánh các phương án của đường sắt cao tốc như phương án tuyến, phương án phân kỳ đầu tư, phương án huy động vốn...

2. So sánh các phương án đầu tư đường sắt như xây đường cao tốc, cải tạo từng bước hệ thống cũ, đổi đường 1 mét thành đường 1,435 mét, đổi đường đơn thành đường đôi...

3. So sánh giữa đầu tư cho đường sắt cao tốc với đầu tư cho các hệ thống giao thông khác như đường bộ, hàng không, đường thủy.

4. So sánh giữa đầu tư cho đường sắt cao tốc với các mục tiêu khác như đầu tư cho nguồn nhân lực, đầu tư cho nông nhiệp...

Trong 4 cấp so sánh trên đây, cấp 1 là so sánh trong dự án đường sắt cao tốc. Cấp 2, 3, 4 đều là các so sánh ngoài dự án. Trong đó cấp 2 phục vụ việc quyết định chủ trương đầu tư của ngành đường sắt. Khi chứng minh sự cần thiết phải đầu tư, tư vấn dự án chắc phải thực hiện so sánh ở cấp này.

Việc so sánh chọn phương án ở cấp 3 và cấp 4 thuộc thẩm quyền của Bộ Giao thông Vận tải và Chính phủ. Được biết việc so sánh này do các cơ quan thẩm định thực hiện để trình Chính phủ và Quốc hội. Để thẩm định dự án này, các cơ quan có trách nhiệm cũng đã sử dụng các cơ quan chuyên môn và tổ chức lấy ý kiến chuyên gia. Nhưng như đã thấy, các đại biếu Quốc hội vẫn thiếu thông tin, dự án đã bị gác lại.

Để biểu quyết, các đại biểu Quốc hội phải thực hiện so sánh phương án ở cấp 3 và 4 (so sánh ngoài dự án). Nhưng đến nay chưa có luật nào quy định về việc chuẩn bị thông tin cho việc so sánh này. Các luật chỉ quy định dự án phải phù hợp với quy hoạch và kế hoạch được cấp thẩm quyền phê duyệt. Nội dung thẩm định dự án được quy định rõ hơn trong các nghị định của Chính phủ cũng chỉ tập trung xem xét tính xác thực của bản thuyết minh dự án, nguồn vốn, khả năng hoàn vốn và sự phù hợp với quy hoạch, kế hoạch.

Việc so sánh ngoài dự án đã được thực hiện ngay từ khâu lập quy hoạch và kế hoạch chưa? Xem xét dự án đường sắt cao tốc và đồ án quy hoạch mở rộng Thủ đô Hà Nội đều chưa thấy được điều đó. So sánh ngoài dự án đòi hỏi thông tin đầy đủ và toàn diện, đây là yêu cầu khó khăn ngay cả đối với các nhà chuyên môn trong các lĩnh vực liên quan. Vừa qua, các ý kiến thảo luận ở Quốc hội cũng như trên báo đài nhiều lúc theo cảm tính hơn là trên cơ sở dữ liệu. Ngoài ra, các ý kiến còn bị chi phối bởi các nhóm lợi ích cục bộ riêng. Việc thương thảo để giải quyết hài hòa các lợi ích của nhân dân dễ biến thành việc cân đối các lợi ích cục bộ.

So sánh ngoài dự án: so sánh cấp chiến lược

Dù là dự án của doanh nghiệp hay của quốc gia, so sánh ngoài dự án đều là so sánh ở cấp chiến lược. Trong điều kiện chưa có các quy định cụ thể về nội dung và cách thức so sánh ngoài dự án, việc chọn phương án phụ thuộc rất nhiều vào tài năng của người đứng đầu. Quyết định đầu tư vào đâu cũng giống như quyết định mở chiến dịch ở đâu trong chiến tranh. Trước đây, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng đã để lại dấu ấn đậm nét khi quyết định đầu tư đường dây điện 500 KV Bắc - Nam.

Ở Hàn Quốc, Lý Thừa Vãn là một nhà độc tài, nhưng ông ta đã để lại cho Hàn Quốc thành quả của chủ trương đầu tư vượt trội cho giáo dục ngay từ những năm 50 của thế kỷ trước, khi Hàn Quốc vừa thoát khỏi chiến tranh và còn rất nghèo khổ. Cho đến nay, khi so sánh hai nền kinh tế tương đương nhau - Tây Ban Nha và Hàn Quốc - người ta đã cho rằng Hàn Quốc sẽ nhanh chóng vượt xa Tây Ban Nha, vì Hàn Quốc đầu tư cho giáo dục cao hơn đáng kể. Các nhà chiến lược tài năng biết lựa chọn thông tin và so sánh ngoài dự án, biết chọn lọc và nghe ý kiến chuyên môn, nhiều khi ý kiến thiểu số đúng đắn hơn đa số.

Đối với một thành phố hay một quốc gia, rất cần những cơ quan nghiên cứu chiến lược mạnh. Nhiệm vụ số 1 và có tính chất bao trùm của các cơ quan này là tham mưu cho cấp thẩm quyền trả lời câu hỏi: “Đầu tư vào đâu?”. Trước hết, các cơ quan nghiên cứu này phải đồng thời là các trung tâm thông tin và có năng lực thu thập và xử lý thông tin mạnh.

“Nhà ta nghèo, khó kiếm được thức ăn nên chúng ta phải giỏi nấu nướng”, các bà mẹ thường dạy chúng ta như vậy. Suy rộng ra, nước ta còn nghèo nên phải giỏi khai thác và sử dụng nguồn lực phát triển đất nước, ngõ hầu sánh vai với các cường quốc năm châu như mong ước của Bác Hồ và các bậc tiền bối đã chiến đấu giành lại nền độc lập tự do ngày nay.