Thứ Ba, 23 tháng 3, 2010

Bỏ trần lãi suất: Không sợ tạo ra cuộc đua lãi suất

Xung quanh việc Ngân hàng Nhà nước nên hay không nên bỏ lãi suất trần huy động (lãi suất tiền gửi vào các tổ chức tín dụng) hiện có hai chiều ý kiến: Một, nên bỏ quy định về lãi suất trần huy động để giải tỏa ách tắc trong hệ thống tiền tệ; Hai, quan ngại việc bỏ trần lãi suất huy động sẽ tạo ra một cuộc đua lãi suất trong hệ thống ngân hàng như năm 2008 sẽ lặp lại.

Phó Tổng Giám đốc điều hành Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) John Lipsky ngày 22/3, tại Hà Nội, khi trả lời phỏng vấn Reuters, cho rằng: "tiền Đồng Việt Nam hiện nay, xét trung hạn, là không có vấn đề" và "bây giờ là lúc cần có chính sách để củng cố niềm tin vào ổn định vĩ mô".

Nhận định của Tuần Việt Nam: hiện có đủ yếu tố thị trường để thay đổi lãi suất trần huy động và khả năng có một cuộc chạy đua lãi suất là khó diễn ra.

Lãi suất chạm đỉnh

Lãi suất cho vay trên thị trường hiện đang phổ biến ở mức 15-17%, lãi suất huy động thực tế của nhiều ngân hàng cũng vượt khá xa so với trần 10.5%. Mức lãi suất này được xem là khá cao so với những năm trước đây (trừ năm 2008), đồng thời cao hơn rất nhiều so với lãi suất tái chiết khấu (7%) và tái cấp vốn (6%). Ngoài ra, lãi suất cho vay cũng cao hơn khá nhiều so chỉ số giá tiêu dùng hiện tại.

Giải thích tình trạng lãi suất cao hiện nay có thể đưa ra một số lý do sau:

Thứ nhất: Lãi suất được đẩy lên cao là do trong thời gian qua xuất hiện tình trạng chênh lệch khá lớn giữa tốc độ tăng trưởng vốn huy động và cho vay. Tình trạng này kéo dài suốt từ năm 2007 đến nay. Cụ thể, năm 2007, tăng trưởng tín dụng là 53.9%, trong khi đó tăng trưởng huy động chỉ đạt 46.1%; năm 2008 hai chỉ số này lần lượt là 25.4% và 20.3%; năm 2009 lần lượt là 37.4% và 28.7%. Hai tháng đầu năm 2010, tăng trưởng tín dụng 1.4%, trong khi đó tăng trưởng tiền gửi lại giảm 0.17%.

Mức chênh lệch kéo dài và quá lớn trên buộc các ngân hàng phải tăng lãi suất huy động để hút tiền, đồng thời tăng lãi suất cho vay để giảm cầu tiền.

Thứ hai: Lãi suất huy động và cho vay vượt xa lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn của NHNN. Đây là một sự nghịch lý vì thông thường lãi suất chiết khấu là công cụ quan trọng trong điều hành lãi suất trên thị trường. Giải thích cho điều này có thể là do NHNN đang rất hạn chế cung tiền qua thị trường mở. Trong trường hợp này công cụ lãi suất chiết khấu đã giảm đi rất nhiều vai trò của nó. Lý do NHNN hạn chế việc cung tiền qua thị trường mở có thể xuất phát từ những lo ngại về lạm phát tiền tệ.

Thứ ba: Việc nâng lãi suất huy động và cho vay là một hệ quả của việc tăng trưởng tín dụng nóng năm 2009. Gói kích cầu bằng hỗ trợ lãi suất đã tạo ra hơn 400.000 tỷ đồng vốn giá rẻ cho người đi vay. Nhiều doanh nghiệp tìm mọi cách để vay tiền bất chấp nhu cầu thực tế khiến tăng trưởng tín dụng năm 2009 lên mức 37.4%, vượt xa mục tiêu 25% của NHNN. Năm 2010, áp lực trả nợ đè nặng lên nhiều doanh nghiệp bởi việc chi tiêu "quá đà" trong năm trước. Ngoài ra, NHNN đặt mục tiêu kiểm soát tín dụng ở mức 25% để phòng ngừa nguy cơ lạm phát khiến cho nguồn vốn ngân hàng càng trở nên khan hiếm.

Sự khác biệt giữa hiện nay và thời điểm xảy ra cuộc đua lãi suất 2008

Cuộc đua lãi suất năm 2008 diễn ra trong hoàn cảnh đặc biệt bởi nhiều yếu tố hội tụ. Lúc đó hệ thống ngân hàng căng thẳng thanh khoản khi NHNN thắt chặt các chính sách tiền tệ một cách mạnh mẽ: Ngày 17/03/2008, NHNN phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc kỳ hạn 1 năm. Sau đó tỷ lệ dự trữ bắt buộc được nâng lên 11%, lãi suất tái cấp vốn 15%, tái chiết khấu lên 13%, lãi suất cơ bản 14%.

Trong khi hiện tại, lãi suất thực tế huy động và cho vay đã cao hơn khá nhiều so với lạm phát và lãi suất chiết khấu của NHNN. Khả năng về mức lạm phát cao trong năm nay cũng khó diễn ra do mục tiêu kìm chế lạm phát được ưu tiên trong chỉ đạo của Chính phủ và cầu hàng hóa chưa có dấu hiệu tăng đột biến. Đợt bán Trái phiếu chính phủ ngày 18/3 vừa qua đã đạt 60% tổng giá trị chào bán với lãi suất 12%, do vậy, lãi suất huy động cân bằng trong dài hạn có thể ở quanh mức 11%-12%.

Xét về phía ngân hàng, họ chỉ thực sự tăng lãi suất huy động khi gặp vấn đề khó khăn trong thanh khoản. Sức ép thanh khoản hiện nay của các ngân hàng không lớn như thời điểm 2008. Các ngân hàng có thể vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất khá thấp để giải quyết vấn đề thanh khoản của mình sẽ hiệu quả hơn so với việc tăng lãi suất huy động. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng đang giữ ở mức ổn định, lãi suất qua đêm quanh mức 7%, lãi suất các kỳ hạn 6 tháng tháng đến 1 năm quanh mức 11.5%.

Xét về điều kiện vĩ mô, thời điểm diễn ra cuộc chạy đua lãi suất lạm phát đang ở mức rất cao, một số nhận định còn cho rằng lạm phát có thể trên 30% vào cuối năm 2008. Trong khi đó tính đến tháng 3/2010, lạm phát chỉ vào khỏang 4%. So với các kênh đầu tư khác: bất động sản, ngọai tệ, chứng khóan, kỳ vọng của các nhà đầu tư năm nay cũng không thể vượt quá 11 - 12% do tình hình nền kinh tế không hồi phục nhanh như phỏng đóan, đồng USD tiếp tục mất giá, Nhà nước cấm họat động kinh doanh vàng trên sàn giao dịch tự do... Dự báo của nhiều tổ chức tài chính trong và ngòai nước cho thấy: đến cuối năm 2010, mức tăng CPI của Việt Nam chỉ ở dưới mức 2 con số.

Một số khác biệt giữa thời điểm diễn ra cuộc chạy đua lãi suất năm 2008 và hiện nay

Năm 2008

Tháng 3/2010

- Ngày 17/03/2008, Phát hành tín phiếu bắt buộc 20,300 tỷ đồng

- 1/04/2008 tỷ lệ dự trữ bắt buộc nâng lên 11%, lãi suất cơ bản điều chỉnh tăng từ 8.75 lên 12%.

- 19/05/2008, lãi suất tái chiết khấu tăng từ 11 lên 13%.

- Ngày 1/06/2008, lãi suất tái cấp vốn tăng từ 13 lên 15%, lãi suất cở bản điều chỉnh tăng lên 14%.

- Lạm phát trung bình năm 22.97%, lãi suất cho vay trung bình trong năm 13.46%. Tăng trưởng tín dụng 25.4%, tăng trưởng GDP 5.19%.

- Không còn tín phiếu bắt buộc, tiếp tục các chính sách tiền tệ mở rộng.

- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc 1% đối với tiền gửi kỳ hạn trên 12 tháng, không kỳ hạn và dưới 12 tháng 3%.

- Lãi suất cơ bản 8%, lãi suất tái cấp vốn 7%, lãi suất tái chiết khẩu 6%.

- Lãi suất chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiếp tục duy trì ở mức thấp.

- Lạm phát mục tiêu 7%, tăng trưởng tín dụng mục tiêu 25%, tăng trưởng GDP mục tiêu 6.5%.

Bỏ trần lãi suất huy động không tạo ra cuộc đua lãi suất

Những phân tích và lập luận trên cho thấy, rất ít có khả năng xảy ra một cuộc đua lãi suất như lo ngại của nhiều người khi trần lãi suất huy động. Nguyên nhân là do lãi suất trên thị trường đã tiệm cận mức cân bằng và có thể nhiều lý do để giảm trong thời gian tới.

Nếu tiếp tục coi mục tiêu kiềm chế lạm phát là ưu tiên hàng đầu của chính sách năm nay, NHNN có thể bỏ lãi suất trần hoặc, thực hiện phương án thận trọng, như nâng mức lãi suất trần huy động lên mức 12% đến 13%. Giải pháp này giúp khơi thông dòng chảy tín dụng huy động để hút tiền trở lại hệ thống ngân hàng, lập lại cân bằng cung cầu trên thị trường tiền tệ.

Việc thay đổi trần lãi suất huy động cũng đồng thời giúp cho ngân hàng chính thức hóa được những khoản chi phí để thu hút tiền gửi đã vượt trần trong thời gian qua, minh bạch hoạt động ngân hàng, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho nền kinh tế. Ngoài ra, đây cũng là một bước đi cần thiết trên con đường tự do hóa lãi suất của Việt Nam trong thời gian tới.

Cần làm rõ một số điểm


Luật sư Nguyễn Hoàng Anh (*)
Thứ Sáu, 19/3/2010, 09:20 (GMT+7)
http://www.thesaigontimes.vn/Home/doanhnghiep/phapluat/31383/
(TBKTSG) - Gần đây trang tin điện tử của Chính phủ đã công bố dự thảo Nghị định về phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương (sau đây gọi tắt là dự thảo nghị định) để lấy ý kiến (xem nguồn http://www.chinhphu.vn/portal). Đây là một văn bản pháp quy quan trọng được soạn thảo nhằm hướng dẫn thi hành Luật Quản lý nợ công được Quốc hội thông qua tháng 6-2009. Bài viết này góp một vài ý cho dự thảo nêu trên.

Về nghĩa vụ trả nợ

Một vấn đề quan trọng chưa được đề cập trong dự thảo Nghị định là việc đảm bảo nghĩa vụ trả nợ đối với trái phiếu chính quyền địa phương (CQĐP). Theo quy định tại điều 31 của dự thảo, “ngân sách địa phương có trách nhiệm thanh toán” nợ gốc và lãi cho trái phiếp CQĐP. Quy định này dường như cho thấy nghĩa vụ trả nợ của tổ chức phát hành là UBND chỉ giới hạn trong phạm vi nguồn ngân sách địa phương. Nhà đầu tư sẽ rất quan tâm trong trường hợp ngân sách địa phương không đủ để tổ chức phát hành thực hiện nghĩa vụ trả nợ trái phiếu CQĐP. Nên chăng có quy định Chính phủ có thể sử dụng nguồn ngân sách trung ương để hỗ trợ trong trường hợp cần thiết.

Vị trí đặt quảng cáo

Ngoài ra, quy định ngân sách địa phương có trách nhiệm thanh toán nợ là không chính xác vì “ngân sách địa phương” là một khái niệm không dùng để chỉ một tổ chức hay cá nhân có năng lực pháp luật dân sự để có thể thực hiện nghĩa vụ trả nợ.

Ngoài ra, nghĩa vụ trả nợ theo các công cụ nợ này cần được làm rõ trong dự thảo Nghị định có bao gồm nghĩa vụ trả nợ lãi quá hạn theo thỏa thuận hay không. Đây là vấn đề các nhà đầu tư vào trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh sẽ quan tâm.

Luật áp dụng trong giao dịch phát hành trái phiếu quốc tế

Dự thảo Nghị định cụ thể hóa quy định của Luật Quản lý nợ công về phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu CQĐP trên cả hai thị trường vốn trong nước và thị trường vốn quốc tế. Sau khi được ban hành, nghị định này sẽ thay thế Nghị định số 141/2003/NĐ-CP ngày 20-11-2003 và các điều khoản liên quan đến việc phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trường vốn quốc tế quy định tại Nghị định 53/2009/NĐ-CP ngày 4-6-2009.

Đây là một trong các điểm mới rất đáng khích lệ vì về mặt bản chất pháp lý, không có sự khác biệt giữa các giao dịch phát hành công cụ nợ trên thị trường vốn trong nước và thị trường vốn quốc tế, do đó việc nhất thể hóa các quy định pháp luật như vậy là cần thiết.

Về nguyên tắc, các giao dịch phát hành trái phiếu trong nước sẽ được điều chỉnh bằng nội luật (trong trường hợp này là luật Việt Nam). Theo thông lệ thị trường vốn, các tài liệu hợp đồng cho giao dịch phát hành trái phiếu trên thị trường quốc tế (được gọi là eurobond market) thường được điều chỉnh bởi luật Anh Quốc hoặc luật của bang New York, Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, dự thảo Nghị định lại quy định các tài liệu pháp lý phát hành trái phiếu quốc tế cần được lập theo “luật pháp quốc tế” (điều 37.1). Khái niệm “luật pháp quốc tế” thuộc về công pháp quốc tế và thường không dùng để chỉ luật của một quốc gia cụ thể. Do vậy, sẽ phù hợp hơn nếu dự thảo Nghị định quy định các bên tham gia giao dịch phát hành trái phiếu quốc tế có thể lựa chọn luật điều chỉnh là luật nước ngoài phù hợp với thông lệ thị trường vốn quốc tế.

Phản ánh thông lệ thị trường áp dụng trong giao dịch phát hành trái phiếu

Một điểm đáng lưu ý là dự thảo Nghị định đề cập khá chi tiết về một vài khía cạnh của thông lệ thị trường phát hành trái phiếu quốc tế. Điển hình là việc dự thảo đưa ra các định nghĩa về vai trò của các tổ chức trung gian (như đại lý chuyển nhượng, đại lý ủy thác...), hay có liên quan (như tư vấn pháp lý) tham gia giao dịch phát hành trái phiếu quốc tế. Các định nghĩa này đôi khi mang tính chất liệt kê và thực sự không cần thiết nếu xét từ góc độ kỹ thuật soạn thảo văn bản (như định nghĩa “tổ hợp bảo lãnh phát hành” tại điều 2.20).

Do thông lệ thị trường vốn có tính linh hoạt và có thể được thay đổi theo từng giao dịch cụ thể, nên các quy định như vậy không thể phản ánh mọi cấu trúc giao dịch phát hành trái phiếu quốc tế. Dự thảo Nghị định có quy định cả vể đại lý ủy thác (trustee) và đại lý tài chính (fiscal agent), phản ánh hai cấu trúc giao dịch phát hành trái phiếu khác nhau trên thị trường trái phiếu quốc tế. Với cấu trúc giao dịch sử dụng đại diện người sở hữu trái phiếu (trustee structure), tổ chức phát hành thường phải chịu chi phí cao hơn do phải chỉ định một tổ chức làm đại diện cho các nhà đầu tư.

Cấu trúc đại lý tài chính (fiscal agent structure) không đòi hỏi phải chỉ định người đại diện sở hữu trái phiếu nên sẽ giúp tổ chức phát hành giảm chi phí giao dịch. Tuy nhiên, tổ chức phát hành sẽ phải trực tiếp giao dịch hay đàm phán với nhiều người sở hữu trái phiếu khác nhau trong các tình huống cần sự chấp thuận của họ (như hoãn nợ hay cơ cấu lại nợ).

_______________________________________

(*) Giám đốc chi nhánh Hà Nội, Công ty Luật Mayer Brown JSM, Trưởng tiểu ban Pháp lý, Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam

Thay hành chính bằng thị trường


Nguyên Tấn
Thứ Hai, 22/3/2010, 22:15 (GMT+7)

http://www.thesaigontimes.vn/Home/kinhdoanh/thuongmai/31368/

(TBKTSG) - Tiếp theo loạt bài về vấn đề kiểm soát giá đăng trên TBKTSG tuần trước, TBKTSG đã phỏng vấn một số chuyên gia kinh tế về vấn đề này. Tất cả đều cho rằng để giá cả hàng hóa phù hợp với sức mua của người dân, quản lý nhà nước cần được vận hành theo quy luật của thị trường thay vì áp dụng những biện pháp mang nặng tính hành chính hoặc thị trường “nửa vời”.

Áp đặt: sẽ khó hiệu quả!

Theo TS. Vũ Đình Ánh, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học thị trường giá cả, với nền kinh tế thị trường, định giá là quyền của doanh nghiệp và giá được hình thành trên cơ sở các yếu tố thị trường.

Do đó, không thể có việc Nhà nước đi định giá thay cho doanh nghiệp như thời bao cấp được. Không nên nhập nhằng, lẫn lộn giữa một bên là biện pháp chống lạm phát của Chính phủ và một bên là định giá vốn thuộc quyền của doanh nghiệp cho dù lạm phát và giá cả là hai phạm trù có liên quan mật thiết với nhau.

Nhưng ngay cả để kiểm soát lạm phát thì những biện pháp này cũng phải tôn trọng các quy luật của thị trường chứ không thể bằng biện pháp mang nặng tính hành chính. Nếu không phù hợp thị trường, biện pháp hành chính sẽ không có tác dụng hoặc có tác dụng thì cũng chỉ phát huy được trong thời gian ngắn và sẽ làm méo mó thị trường”-ông Ánh khẳng định.

Đồng quan điểm như trên, PGS. Nguyễn Văn Nam, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thương mại, cho rằng một người dù giỏi đến đâu cũng không thể định giá đúng bằng thị trường, không thể định giá thay người bán và người mua. Biện pháp áp đặt hành chính, theo ông, không chỉ khó đem lại hiệu quả mà còn có thể dẫn đến tiêu cực “vì khi có người có quyền duyệt giá, định giá tất sẽ nảy sinh tình trạng xin - cho”.

Bà Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ cũng chỉ rõ: mặc dù mục đích là nhằm tạo sự ổn định về giá cả cho nền kinh tế và người dân nhưng những quyết định mang nặng tính hành chính như vậy lại thường bị ảnh hưởng bởi những nhóm lợi ích hơn là đông đảo người dân hoặc là lợi ích chung của nền kinh tế. Trong khi đó, người tiêu dùng lại không có những tiếng nói đủ mạnh để đại diện cho lợi ích chung của nền kinh tế.

Hơn nữa, theo bà Lan, doanh nghiệp trong các lĩnh vực như điện hay xăng dầu vẫn chưa thực sự nỗ lực hoặc bị một sức ép cần thiết từ phía Nhà nước để giảm giá thành, chẳng hạn như chống thất thoát điện, chống lãng phí hoặc đầu tư hợp lý để tiết kiệm, giảm giá thành. Việc đầu tư dàn trải và dự án nào cũng kéo dài hàng năm trời làm tăng chi phí, tăng giá thành là một nghịch lý. “Cho nên, không quan tâm giải quyết thực tế và những nghịch lý đó mà cứ đẩy giá cả lên thì tức là đẩy thiệt thòi về cho người tiêu dùng” - bà Lan phân tích.

Phải thị trường hơn nữa

Các chuyên gia cho rằng con đường tốt nhất để giá cả hàng hóa ổn định, phù hợp với sức mua của người dân chỉ có thể là tạo lập một thị trường cạnh tranh đầy đủ, lành mạnh và công bằng.

“Làm sao xăng dầu có thể có mức giá cạnh tranh theo thị trường khi lĩnh vực ấy về bản chất vẫn trong tình trạng độc quyền bởi các doanh nghiệp nhà nước, trong đó doanh nghiệp lớn nhất chiếm tới 60% thị phần? Các doanh nghiệp này chia nhau thị phần theo địa bàn, đối tượng khách hàng, ví dụ, doanh nghiệp ở TPHCM chỉ được bán trên địa bàn TPHCM, doanh nghiệp của hàng không chỉ bán cho ngành hàng không, quân đội thì bán cho quân đội… Như thế thì làm sao có cạnh tranh ở đây được!”, PGS. Nguyễn Văn Nam đặt vấn đề. Theo ông, với những doanh nghiệp nhà nước có thị phần quá lớn thì nên chăng chia nhỏ ra thành các công ty độc lập, những công ty này sẽ cạnh tranh với nhau tốt hơn.

Chênh lệch dầu thô: nên bù đắp cho dân?

“Dù là một nước xuất khẩu dầu thô nhưng quả thực người dân lại rất ít được hưởng lợi ích từ xuất khẩu dầu thô. Chúng ta tách riêng xuất khẩu và tiêu dùng dầu ra thành hai lĩnh vực riêng, cho nên người dân không cảm nhận được lợi ích từ xuất khẩu dầu thô.

Xuất khẩu dầu thô tất nhiên mang lại nguồn thu cho ngân sách và tôi cũng hiểu những khoản thu ngân sách đó dùng để chi cho các công trình phúc lợi nhưng mà chí ít khi giá dầu thế giới tăng thì lẽ ra cũng có thể trích một phần chênh lệch của xuất khẩu dầu thô để bù đắp cho người tiêu dùng.

Được như thế thì sẽ kiềm chế bớt sự tăng giá và đỡ thiệt hại cho người tiêu dùng và nền kinh tế”.

Phạm Chi Lan (nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ)

Bà Phạm Chi Lan cũng đồng ý với ý kiến cho rằng một trong những nguyên nhân của việc tăng giá tùy tiện chính là chưa có lực lượng cạnh tranh đầy đủ.

Tuy nhiên, bà Phạm Chi Lan không đồng ý với biện pháp chia nhỏ đối với các doanh nghiệp nhà nước lớn. “Chia nhỏ tập đoàn EVN ra thành 5 tổng công ty như phương án của ngành điện hiện nay thì vẫn cùng một mẹ, vẫn là người nhà, anh em ruột thịt với nhau, tránh sao khỏi thông đồng, chia sẻ với nhau, làm ảnh hưởng đến lợi ích của xã hội”.

Theo bà Lan, Nhà nước nên mở cửa thị trường hơn nữa để cho các doanh nghiệp đủ mạnh tham gia. Tương tự như cách đối với ngành viễn thông trước đây. Khi có một doanh nghiệp đủ mạnh như Viettel tham gia vào thị trường, VNPT lập tức phải thay đổi và giá viễn thông đã không ngừng được cải thiện.

Trong khi đó, theo TS. Nguyễn Vân Nam, Giám đốc Công ty Luật Nam Hùng, song song với việc tự do hóa thị trường để ngăn ngừa và xử lý các hành vi vi phạm liên quan đến giá, làm cản trở cạnh tranh hiệu quả thì không thể bỏ qua một công cụ quan trọng là Luật Cạnh tranh.

Tuy nhiên, Luật Cạnh tranh hiện hành còn quá nhiều khiếm khuyết và khó lòng đáp ứng nhu cầu thực tế. Hàng loạt hành vi như sự thao túng của các tập đoàn nước ngoài trong lĩnh vực dược phẩm; quảng cáo so sánh, quảng cáo gây ngộ nhận trong lĩnh vực sữa… làm rối loạn giá cả các mặt hàng này đã không thể xử lý, ngăn ngừa.

Mặt khác, có vẻ như cơ quan quản lý cạnh tranh vẫn chưa thật sự thể hiện được vai trò của mình thể hiện qua số lượng vụ việc ít ỏi được điều tra bởi cơ quan này.

TS. Nguyễn Vân Nam cũng đề nghị nên có một đạo luật riêng quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của các công ty độc quyền. Theo ông, nhiệm vụ cơ bản của các công ty độc quyền do Nhà nước lập nên là đảm bảo sự ổn định về giá cả, phù hợp với sức mua của người dân và sự hoạt động bình thường của toàn xã hội.

Ví dụ, ở Đức, vận tải hành khách công cộng do nhà nước độc quyền nắm giữ và giá vé đi xe buýt hàng chục năm nay hầu như không thay đổi cho dù có lúc sốt giá xăng dầu trên thế giới và mỗi năm nhà nước phải bù lỗ khoảng 2 tỉ euro cho hoạt động giao thông công cộng ở thủ đô Berlin.

Do đó, khác với các doanh nghiệp bình thường khác, các công ty độc quyền nhà nước không thể được phép hoạt động chỉ vì mục tiêu lợi nhuận, vì quyền lợi của chính mình.

“Nói rằng vì là doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường nên các công ty độc quyền này cũng phải có lãi là hoàn toàn không đúng và không đúng cả về mặt thị trường. Có ở đâu trên thế giới này, một công ty vừa được nhà nước đảm bảo độc quyền kinh doanh, vừa buộc người dân phải trả thêm tiền khi giá thế giới tăng chỉ để không bị thua lỗ? Đó là sự can thiệp hoàn toàn phi thị trường!”, ông Nam nói.

Để tuyên bố hợp đồng vô hiệu chính xác

Lê Trọng Dũng (Văn phòng Luật sư Gia Phạm)
Thứ Hai, 22/3/2010, 21:22 (GMT+7)

http://www.thesaigontimes.vn/Home/doanhnghiep/phapluat/31384/

(TBKTSG) - LTS: Tiếp nối bài “Phù hợp hay vô hiệu?” (TBKTSG ra ngày 25-2-2010) và bài “Để tránh lạm dụng tuyên hợp đồng vô hiệu” (TBKTSG ra ngày 4-3-2010), chúng tôi giới thiệu bài viết sau, cũng đề cập đến vấn đề “hợp đồng vô hiệu”.

Sự ra đời của Bộ luật Dân sự 2005 với những kế thừa các quy định pháp luật trước đây về hợp đồng vô hiệu, cùng với sự tiếp thu kinh nghiệm pháp luật trên thế giới đã phần nào khắc phục tình trạng nhiều hợp đồng bị tuyên vô hiệu một cách không cần thiết.

Tuy nhiên, bên cạnh những tiến bộ, một số quy định không rõ ràng và cách vận dụng pháp luật thiếu linh hoạt đã dẫn đến tình trạng Nhà nước can thiệp quá mức vào tự do hợp đồng, gây không ít hậu quả xấu cho các bên liên quan. Để tuyên bố hợp đồng vô hiệu một cách chính xác, có sức thuyết phục, cần hướng tới các vấn đề sau:

Tôn trọng tự do hợp đồng

Để đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật hợp đồng của một quốc gia, người ta thường xem xét các giá trị của tự do hợp đồng. Tự do hợp đồng được hiểu là khi tham gia quan hệ hợp đồng, các bên được tự do lựa chọn đối tác, tự do chọn loại hình hợp đồng thích hợp để đạt mục tiêu, tự do xác lập các điều khoản và tự do quyết định có giao kết hợp đồng hay không.

Một số người cho rằng để bảo vệ quyền tự do của người khác và lợi ích của cộng đồng nên phải hạn chế tự do hợp đồng. Và tự do hợp đồng bị vô hiệu khi các bên tham gia hợp đồng có thỏa thuận vi phạm trật tự công, đạo đức xã hội hoặc các bên tham gia hợp đồng không hoàn toàn tự nguyện.

Nhưng có lẽ tự do hợp đồng chỉ có một giá trị nổi bật nhất là hạn chế sự can thiệp của cơ quan có thẩm quyền vào tự do của công dân. Do đó, cần đảm bảo tự do hợp đồng của các bên trong quan hệ hợp đồng, đồng thời có những quy định pháp luật hạn chế ở mức thích đáng tự do hợp đồng nhằm bảo đảm trật tự công và đạo đức xã hội.

Xác định sự can thiệp vào tự do hợp đồng

Cải cách pháp luật hợp đồng, hoàn thiện những quy định liên quan đến hợp đồng vô hiệu cần xác định sự can thiệp vào tự do hợp đồng. Trong xu hướng hoàn thiện pháp luật, sửa đổi Bộ luật Bân sự 2005 cần có những quy định về hợp đồng vô hiệu không chỉ bảo đảm sự quản lý nhà nước mà cần đặt lợi ích của các bên tham gia hợp đồng làm mục tiêu ưu tiên. Điều này nhằm mục đích Nhà nước thực sự trở thành bàn tay nâng đỡ cho các quan hệ tự do kinh doanh, tự do thỏa thuận để thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển.

Do đó, từ hình thức, nội dung, các điều kiện có hiệu lực cho đến các trường hợp vô hiệu của hợp đồng cần được tư duy theo hướng tăng cường tự do hợp đồng, hạn chế sự can thiệp không cần thiết vào quan hệ hợp đồng. Khi đã chứng minh được có sự tự do thỏa thuận và thỏa thuận đó trở thành “luật” đối với các bên tham gia hợp đồng thì cần phải được tôn trọng ngay cả từ phía cơ quan nhà nước. Tòa án đại diện cho cơ quan nhà nước chỉ nên can thiệp khi quan hệ hợp đồng vi phạm trật tự công, đạo đức xã hội chứ không nên tuyên vô hiệu.

Trật tự công thay cho điều cấm của pháp luật

Trong xu thế hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu, Bộ luật Dân sự sau này nên dùng thuật ngữ “trật tự công” thay cho thuật ngữ “điều cấm của pháp luật” là căn cứ để tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu.

Pháp luật có đồ sộ đến đâu cũng không thể bao quát hết mọi tình huống trong cuộc sống. Và nhiều khi việc tự do hợp đồng không trái với các điều cấm của pháp luật nhưng vẫn có thể chống lại trật tự công. Ngược lại, nhiều khi trái hay khác với các quy định pháp luật không có nghĩa là sẽ chống lại trật tự công cộng.

Bởi vậy, các điều cấm của pháp luật quá cứng nhắc vẫn có thể không bảo vệ được lợi ích chung của cộng đồng. Và thuật ngữ “điều cấm của pháp luật” khi vận dụng pháp luật không linh hoạt sẽ bị lạm dụng để can thiệp quá mức vào các quan hệ hợp đồng. Do đó, khi sử dụng mềm dẻo thuật ngữ “trật tự công” thì các lợi ích chung mới thật sự được bảo vệ.

Như vậy, để tuyên bố một hợp đồng vô hiệu, các tòa án không chỉ tuân thủ và áp dụng những quy định trong Bộ luật Dân sự 2005 mà còn cần có quyền sáng tạo. Trong quá trình đó, tòa án thu nạp những giá trị công lý, thuần phong mỹ tục vào phán quyết của mình để giải thích thuật ngữ “trật tự công” và giúp những hợp đồng bị tuyên vô hiệu trở nên hợp tình hợp lý hơn.

Sử dụng án lệ về hợp đồng dân sự vô hiệu

Án lệ về hợp đồng dân sự vô hiệu là các bản án, quyết định của tòa án được thừa nhận và trở thành khuôn mẫu điển hình để các tòa án vận dụng giải quyết trong những trường hợp tương tự. Ở nước ta, án lệ về hợp đồng dân sự vô hiệu vẫn chưa được thừa nhận là nguồn chính thức của pháp luật nhưng các luật sư và thẩm phán vẫn tìm thấy ở đó những quy phạm bổ sung cho sự thiếu hụt của văn bản pháp luật.

Các thẩm phán không chỉ tuân thủ và áp dụng các quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu trong Bộ luật Dân sự 2005, mà cần có quyền sáng tạo và giải thích pháp luật. Đa dạng hóa các nguồn pháp luật hợp đồng, sử dụng án lệ hợp đồng dân sự vô hiệu cho những trường hợp tương tự sẽ dẫn đến các tuyên bố vô hiệu hợp đồng chính xác hơn, đảm bảo các quyền và lợi ích của các bên tham gia hợp đồng và của người khác. Bởi vậy, hoàn thiện các quy định của pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu nên trao cho thẩm phán quyền linh hoạt sáng tạo để phù hợp với từng trường hợp cụ thể.

Ngoài những quy phạm về hợp đồng dân sự vô hiệu được ghi nhận trong văn bản pháp luật, cần tồn tại một loại quy phạm đặc biệt gần gũi với thực tế đời sống. Đó chính là những quy phạm được các thẩm phán thiết lập qua quá trình áp dụng pháp luật giải quyết các vụ án về hợp đồng dân sự. Những quy phạm này cần được xem là một nguồn quy phạm bổ sung trong quá trình áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án về hợp đồng dân sự vô hiệu.

Tăng trách nhiệm và độc lập của thẩm phán

Để bảo đảm một hợp đồng dân sự bị tuyên vô hiệu chính xác, bảo vệ được quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng và bảo vệ được trật tự công, trình độ chuyên môn và lương tâm của các thẩm phán cần phải đảm bảo các yêu cầu đặt ra. Thẩm phán phải là những người có đạo đức tốt và là người có khả năng cảm nhận công lý, thu nạp những giá trị chân lý, thuần phong mỹ tục vào các phán quyết tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu. Đồng thời thẩm phán cần phải chịu trách nhiệm về các bản án, quyết định tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu của mình. Điều này thể hiện ở chỗ, thẩm phán chỉ tuân theo những quy định của pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu khi xét xử, tự mình giải quyết các tranh chấp hợp đồng, không phụ thuộc vào bất cứ ai và cũng không bị chi phối bởi ý kiến của ai.

Tính độc lập của thẩm phán cũng bao gồm cả độc lập áp dụng những quy định của pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu và sáng tạo pháp luật trong những trường hợp pháp luật hợp đồng thiếu hụt. Một hệ thống tư pháp thật sự độc lập, đáng tin cậy sẽ góp phần giúp cho việc tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu được chính xác, đảm bảo được các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia hợp đồng và những người khác.

Đánh giá về báo cáo của Fitch Ratings

http://www.thesaigontimes.vn/Home/taichinh/nganhang/31326/
Lê Anh Tuấn - Dan Svensson - Lê Yến Quỳnh (Công ty Quản lý quỹ Dragon Capital)
Thứ Ba, 23/3/2010, 09:31 (GMT+7)

Đánh giá về báo cáo của Fitch Ratings

Lê Anh Tuấn - Dan Svensson - Lê Yến Quỳnh (Công ty Quản lý quỹ Dragon Capital)

(TBKTSG) - Trong báo cáo ngày 12-3 của Fitch Ratings, các nguyên nhân chính cho quyết định dự trù hạ mức tín nhiệm tín dụng ngoại tệ và nội tệ của Việt Nam bao gồm:

- Sự giảm sút lòng tin vào đồng nội tệ trong thời gian gần đây.

- Dự trữ ngoại hối ở mức thấp và mức độ minh bạch trong việc công bố thông tin về dự trữ ngoại hối.

- Áp lực lạm phát tăng cao.

- Thâm hụt thương mại đang trong chiều hướng tăng cao.

- Sai số rất lớn trong cán cân thanh toán cho thấy hiện tượng chảy máu dòng vốn ngoại tệ ra nước ngoài trong khu vực dân cư.

- Không thành công trong các cuộc chào bán trái phiếu chính phủ và tình hình lãi suất trái phiếu đang tăng cao.

Chúng tôi lần lượt nêu nhận xét của mình về các vấn đề trên.

Lòng tin vào đồng nội tệ

Mặc dù đồng nội tệ vẫn đang ở thế yếu, nhưng chúng tôi không tin rằng lòng tin vào đồng nội tệ đang trên đà giảm sút.

Fitch Ratings có nêu các mặt hạn chế khi phân tích tỷ giá dựa trên hợp đồng kỳ hạn không chuyển giao (non deliverable forward - NDF) tuy nhiên cách thức tính toán và phân tích của Fitch về NDF là không chính xác.

Fitch đã so sánh 3 đường cong của NDF vào 3 thời điểm khác nhau. Tuy nhiên để việc so sánh này chính xác, Fitch cần phải phản ánh sự chênh lệch của lãi suất của đồng Việt Nam và đô la Mỹ vào công thức tính toán.

Một điểm cần chú ý là tỷ giá giao dịch trên thị trường không chính thức ở mức bình quân đồng Việt Nam/đô la Mỹ 19.450-19.500 trước ngày 10-2, ngày Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tuyên bố điều chỉnh tỷ giá 3,3%. Trong khi thời gian gần đây tỷ giá này lại đang được giao dịch ở mức bình quân 19.320-19.350. Điều này chứng tỏ lòng tin vào đồng nội tệ không đang trên đà sụt giảm.

Việc chủ động tham gia vào kiểm soát thị trường vàng trong thời gian gần đây của NHNN đã làm cho chúng tôi tin rằng NHNN hiểu được sự quan trọng trong việc làm mất đi chênh lệch giữa tỷ giá niêm yết và tỷ giá giao dịch trên thị trường không chính thức. Mặc dù sự chênh lệch này đã giảm từ 5% về 1%, nhưng để khai thông nguồn ngoại tệ đang ứ tắc trong nền kinh tế và tránh được tình trạng găm giữ ngoại tệ của doanh nghiệp và cá nhân, sự chênh lệch này cần phải mất đi hoàn toàn.

Dự trữ ngoại hối

Ở Việt Nam, khái niệm dự trữ ngoại hối thường được sử dụng một cách không rõ ràng và có 3 định nghĩa khác nhau để giải thích cho khái niệm này:

- Tổng dự trữ ngoại hối của quốc gia: bao gồm ngoại hối tại ngân hàng trung ương, ngoại hối của các tổ chức tín dụng và ngoại hối của Chính phủ.

- Dự trữ ngoại hối thuần (Gross forex reserve): bao gồm ngoại hối tại ngân hàng trung ương và ngoại hối của Chính phủ.

- Dự trữ ngoại hối ròng (Net forex reserve): chỉ tính dự trữ ngoại hối của ngân hàng trung ương.

Định nghĩa về dự trữ ngoại hối thường không được đề cập trong phần lớn công bố thông tin hay thảo luận, dẫn tới sự không thống nhất trong việc so sánh độ tăng giảm của dự trữ ngoại hối.

International Financial Statistics (IFS) là dữ liệu cơ sở của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) với độ tin cậy rất cao. Theo số liệu mới nhất của IFS, lượng dự trữ ngoại hối thuần của Việt Nam vào tháng 8-2009 là 18,8 tỉ đô la. Trong khi theo Fitch, lượng dự trữ ngoại hối thuần của Việt Nam vào tháng 10-2009 chỉ còn 15,9 tỉ đô la, giảm 3 tỉ đô la trong vòng hai tháng. Do đó số liệu 15,9 tỉ đô la dự trữ ngoại hối thuần của Fitch đưa ra cần phải được chứng minh rõ ràng hơn hoặc dẫn chứng nguồn gốc của số liệu.

Đồng thời Fitch dự đoán dự trữ ngoại hối thuần nằm ở mức 14,5 tỉ đô la vào cuối năm 2009, giảm 8 tỉ đô la trong vòng một năm. Đây là mức giảm quá nhanh. Tuy nhiên, theo chúng tôi, tình trạng dự trữ ngoại hối từ cuối năm 2009 đến nay đã bắt đầu ổn định. Đồng thời một sự khác biệt rất lớn trong thị trường ngoại hối vào năm 2009 và hiện nay là trạng thái ngoại hối của các ngân hàng. Những tháng cuối năm 2009, trạng thái ngoại hối của các ngân hàng đều âm, tuy nhiên, hiện nay phần lớn trạng thái ngoại hối của các ngân hàng đều dương. Điều này làm giảm rất nhiều áp lực cho dự trữ ngoại hối.

Một điều quan trọng khác mà Fitch thiếu khi phân tích là sự dịch chuyển của dự trữ ngoại hối từ NHNN qua các tổ chức tín dụng trong những tháng cuối năm 2009 do việc khai báo thiếu chính xác trạng thái ngoại hối của các tổ chức tín dụng. Theo phân tích của chúng tôi, khi NHNN thành công trong việc làm tỷ giá trên thị trường không chính thức về dưới mức tỷ giá niêm yết thì dự trữ ngoại hối sẽ được cải thiện đáng kể.

Một chỉ số rất quan trọng trong việc đánh giá độ rủi ro của một quốc gia là hệ số giữa dự trữ ngoại hối và nghĩa vụ trả nợ ngắn hạn. Dựa vào số liệu của Bộ Tài chính và tổng dư nợ nước ngoài của Việt Nam vào cuối tháng 6-2009, chúng tôi tính toán nghĩa vụ trả nợ của Việt Nam như sau:

Theo Fitch, hệ số dự trữ ngoại hối trên nợ ngắn hạn của Việt Nam sẽ vào khoảng 355% vào năm 2010, so sánh với 184% của các nước có xếp hạng tín nhiệm trên một bậc là BB. Ví dụ như Indonesia, vào cuối quí 3-2009, nợ nước ngoài ngắn hạn là 29 tỉ đô la và dự trữ ngoại hối là 62 tỉ đô la, hệ số an toàn chỉ vào khoảng 213%. Tuy nhiên, theo chúng tôi, dự tính của Fitch có thể là quá bi quan và rất khó xảy ra. Để đạt được hệ số 355%, lượng dự trữ ngoại hối phải giảm thêm 7,3 tỉ đô la nữa và đồng thời nghĩa vụ trả nợ ngắn hạn trong năm 2010 phải tăng thêm 100%.

Áp lực lạm phát

Fitch nhận định Việt Nam đang gặp phải áp lực lạm phát tăng cao bằng cách so sánh tăng trưởng tiềm năng với tăng trưởng thực. Theo Fitch, tăng trưởng thực của Việt Nam đã gần mức tăng trưởng tiềm năng vào quí 4-2009, việc này sẽ tạo ra áp lực lạm phát. Chúng tôi thực sự thấy lý luận này của Fitch có vấn đề.

Thứ nhất, việc tính toán tăng trưởng tiềm năng của Việt Nam dựa trên số liệu 10 năm trong đó có rất nhiều thay đổi về cấu trúc là một điều không nên làm. Thứ hai, giả sử tính toán về tăng trưởng tiềm năng của Fitch là chính xác thì kết luận của Fitch lại càng có vấn đề. Tăng trưởng thực vào năm 2008 bình quân ở mức 2-3% dưới mức tăng trưởng tiềm năng rất nhiều nhưng lạm phát của Việt Nam vẫn đạt mức cao nhất 28% vào giữa năm.

Lạm phát là rủi ro có thật, tuy nhiên có lẽ rủi ro này bị đánh giá quá mức. Chúng tôi dựa vào bảng cân đối tổng thể quốc gia và các quyền số trong lạm phát để phân tích các yếu tố quyết định xu hướng lạm phát của Việt Nam. Theo chúng tôi, có năm yếu tố quan trọng:

- Giá gạo: Chiếm gần 9% trong quyền số tính lạm phát và có ảnh hưởng gián tiếp mạnh lên các mặt hàng ăn uống và thực phẩm khác. Trải qua kinh nghiệm năm 2008, khi giá gạo tăng đến 1.100 đô la/tấn, nhiều quốc gia vì lý do an ninh lương thực đã đẩy mạnh sản xuất gạo. Thêm vào đó, Myanmar cũng tăng sản lượng xuất khẩu thêm gần 100% với giá cạnh tranh sẽ làm cho khả năng tăng giá lúa gạo đột biến gần như là rất thấp. Tại Việt Nam, chúng ta đang phải đối mặt và tìm cách ngăn chặn vấn đề giảm giá lúa gạo. Do đó, rủi ro từ phía giá gạo đến lạm phát được xem là rất thấp.

- Giá thịt heo: Chiếm gần 7% trong quyền số tính lạm phát và là một trong những thành phần quan trọng nhất của bữa ăn gia đình Việt Nam. Nguồn cung của thịt heo sẽ tăng vào khoảng 3,5-4,5% trong năm 2010. Với nguồn cung dồi dào hơn, thịt heo sẽ khó có khả năng tăng giá mạnh.

- Giá xăng dầu: Quyền số vào khoảng 3,5%, tuy nhiên ảnh hưởng rất lớn đến lạm phát tâm lý và có ảnh hưởng gián tiếp lên rất nhiều mặt hàng khác. Đây là một yếu tố khó dự đoán. Tuy nhiên, trong tình trạng kinh tế thế giới còn rất nhiều rủi ro, việc các gói kích cầu trên thế giới sẽ mất dần tác dụng sẽ diễn ra vào quí 3 và 4-2010, khả năng giá dầu bình quân trong hai quí cuối năm tăng cao nhiều hơn mức giá hiện tại là không cao.

Hơn nữa, nếu giá dầu có thể đạt mức bình quân 100 đô la/thùng trong hai quí cuối năm, đồng nghĩa với việc giá dầu sẽ đạt mức 120 đô la/thùng, tức là giá xăng vào khoảng 20.000-21.000 đồng/lít. Cho dù việc này xảy ra, dựa vào ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp, lạm phát của Việt Nam sẽ tăng thêm vào khoảng 1,5%, một con số chưa đáng ngại.

- Giá trị tài sản tài chính: Việc tăng giá mạnh ở bất động sản sẽ làm cho người dân cảm thấy giàu có hơn, và làm cho các mặt hàng khác rẻ hơn. Điều này cũng dẫn đến lạm phát. Tuy nhiên, dựa vào tăng trưởng tín dụng và mục tiêu tăng trưởng tín dụng trong năm 2010, việc thị trường bất động sản nóng trở lại và duy trì giá ở mức cao là ít khả năng xảy ra.

- Chính sách tiền tệ: NHNN đã bắt đầu cảnh giác với lạm phát từ tháng 12-2009 bằng việc tăng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8%. Việc cảnh giác trước lạm phát của NHNN sẽ góp phần kìm hãm lạm phát.

Qua phân tích sơ lược năm yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến lạm phát, chúng tôi cho rằng lạm phát sẽ nằm trong tầm kiểm soát. Nên nhớ, lạm phát bình quân từ năm 2003-2009 là 8,89%. Do đó, nếu lạm phát của năm 2010 ở tầm 9-10% thì không phải là một rủi ro quá lớn.

Thâm hụt thương mại

Lượng nhập khẩu xăng dầu hai tháng đầu năm 2010 tăng khá cao, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2009. Tuy nhiên lượng xuất khẩu xăng dầu lại giảm khoảng 6%. Điều này cho thấy một lượng dầu thô đang được sử dụng bởi Dung Quất nhưng có lẽ lượng xăng dầu thành phẩm từ Dung Quất chưa bắt đầu được bán ra thị trường. Nếu chúng ta loại bỏ yếu tố vàng và dầu thô, lượng xuất khẩu của Việt Nam tăng ở mức 20% trong hai tháng đầu năm so với cùng kỳ.

Sai số trong cán cân thanh toán

Theo tính toán và ước tính của Ngân hàng Thế giới và Fitch, sai số trong cán cân thanh toán có thể lên đến mức 10-11 tỉ đô la. Trên lý thuyết, sai số này có thể do việc dòng vốn ngoại tệ trong dân cư chảy ra khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, sai số này cũng có thể được giải thích bởi sự ước tính sai trong các cấu phần của cán cân thanh toán.

Theo chúng tôi, lượng giải ngân FDI thực chỉ khoảng 4,2 tỉ đô la so với con số 8-10 tỉ đô la giải ngân FDI theo ước tính của Ngân hàng Thế giới. Vốn FDI giải ngân bao gồm hai nguồn là vốn tự có và tín dụng từ nước ngoài và tín dụng trong nước. Vốn tự có và tín dụng từ nước ngoài mới là yếu tố thực sự ảnh hưởng đến cán cân thương mại vì đây là luồng đô la thực chảy vào Việt Nam.

Chúng tôi cũng ước tính khoảng 1,8-2 tỉ đô la vàng nhập vào Việt Nam trong những tháng cuối năm 2009. Nghĩa là 2 tỉ đô la trong sai số 7 tỉ đô la được giải thích bởi lượng vàng nhập. Một phần lớn trong sai số 5 tỉ đô la còn lại được giải thích bởi việc găm giữ đô la.

Một minh chứng điển hình là chỉ có khoảng 10% trong tổng số 6,2 tỉ đô la kiều hối được bán cho các ngân hàng. Có thể có một phần không lớn của sai số nằm trong diện chảy máu dòng vốn ngoại tệ. Qua đây chúng ta có thể thấy, nguyên nhân của sai số lớn là do việc tỷ giá thị trường không chính thức cao hơn tỷ giá niêm yết và việc nhập vàng không qua kiểm soát.

Trái phiếu chính phủ và tình hình lãi suất trái phiếu đang tăng cao

Theo Fitch, thất bại trong việc đấu giá trái phiếu chính phủ trong thời gian từ tháng 11-2009 đến tháng 3-2010 là do sự sút giảm lòng tin vào đồng nội tệ. Tuy nhiên, đánh giá này có lẽ chưa chính xác. Theo chúng tôi ước tính, các ngân hàng nắm giữ khoảng 85% lượng trái phiếu chính phủ đang lưu hành. Do đó, việc phát hành thành công trái phiếu chính phủ phụ thuộc rất nhiều vào tính thanh khoản của các ngân hàng.

Trong khoảng thời gian đó, tính thanh khoản của các ngân hàng là khá yếu và NHNN lúc đó đang áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt. Điều này dẫn tới việc các ngân hàng không đủ thanh khoản để mua trái phiếu. Trong đợt bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ gần đây nhất, khối lượng tham gia đấu thầu gấp hơn năm lần khối lượng chào bán cho kỳ hạn hai năm, đồng thời toàn bộ khối lượng chào bán cho kỳ hạn ba năm đã được bán hết. (Xem thêm bài “Cần làm rõ một số điểm).

Ảnh hưởng báo cáo của Fitch đối với thị trường tài chính

Trái phiếu quốc tế của Việt Nam phát hành năm 2005 vẫn giao dịch ổn định ở mức 106,7-106,8 sau khi Fitch đưa ra báo cáo của mình về Việt Nam. Trái phiếu quốc tế Việt Nam mới phát hành năm 2010, sau một thời gian lên giá liên tục, vẫn giao dịch ổn định sau báo cáo của Fitch.

Thị trường CDS (một dạng bảo hiểm tín dụng tránh phá sản) tăng khoảng 18 đến 20 điểm, từ 230 lên 248 sao báo cáo của Fitch. Tuy nhiên thị trường CDS phụ thuộc rất nhiều vào những nhà tạo lập thị trường (market makers) và có tính thanh khoản kém, do đó, việc tăng điểm này là phản ứng tất yếu của các market makers để bảo vệ cho chính họ. Hơn nữa, việc thị trường CDS dao động từ 5-15 điểm trong một ngày là rất bình thường.

Có lẽ báo cáo của Fitch sẽ mang tính thời sự hơn nếu được đưa ra sáu tháng trước. Ngoài những phân tích thiếu chính xác, các vấn đề mà Fitch nêu lên thật sự đã được ổn định và cải thiện nhiều trong ba tháng vừa qua, một nhận định được các tổ chức tài chính quốc tế chia sẻ khi bình luận về báo cáo của Fitch.

Bớt 'làm văn' và 'tô hồng' văn kiện

Cập nhật lúc 04:50, Thứ Ba, 23/03/2010 (GMT+7)
http://vietnamnet.vn/chinhtri/201003/Bot-lam-van-va-to-hong-van-kien-900177/
- Tôi nghĩ rằng điều quan trọng nhất trong văn kiện là nêu lên được các tư tưởng, chủ trương then chốt, không nên quá dài dòng và nặng yếu tố "làm văn" - ý kiến của TS Đặng Đức Đạm, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển kinh doanh (RIBD).

Dồn đến chân tường rồi mới bật dậy

- Thưa ông, Hội nghị Trung ương khai mạc lần này sẽ thông qua dự thảo các văn kiện trình Đại hội XI để đưa xuống lấy ý kiến đóng góp tại các Đại hội Đảng bộ cơ sở và sau đó lấy ý kiến của nhân dân. Là người từng tham gia xây dựng một số văn kiện của Đại hội Đảng trước đây, ông có ý kiến gì để việc đóng góp, xây dựng các văn kiện ngày càng có chất lượng?

Không phải chỉ Đảng viên mà nhân dân ai ai cũng mong chờ Đại hội Đảng với suy nghĩ là Đại hội sẽ có những quyết đáp cho những vấn đề vừa cơ bản vừa bức xúc trong cuộc sống, những vấn đề mà các cấp chính quyền không tự giải quyết được.

Không phải trước Đại hội 1-2 năm chúng ta mới bắt tay vào xây dựng văn kiện cho Đại hội, mà đấy là một quá trình liên tục. Rất nhiều công trình nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn được tiến hành trong suốt 5 năm của một nhiệm kỳ để phục vụ cho việc xây dựng văn kiện cho Đại hội của nhiệm kỳ mới.

Điều đầu tiên mà tôi mong muốn là các văn kiện Đại hội phải kết tinh được những thành tựu, những kết quả nghiên cứu được tiến hành trước đó, làm sao các kết quả nghiên cứu đó sẽ được thể hiện vào trong các văn kiện của Đại hội.

Nói như vậy cũng để thấy rằng muốn có văn kiện tốt thì phải làm tốt từ đầu các công trình nghiên cứu lý luận và và tổng kết thực tiễn, chứ đầu năm sau là tiến hành ĐH rồi, bây giờ nếu có muốn thay đổi căn bản cũng rất khó.

Trong thực tế tôi biết thì bây giờ những nội dung cơ bản đã được định hình.

"Có những đồng chí là Ủy viên TƯ, Bộ trưởng còn đếm số dòng trong phần đánh giá ngành mình phụ trách xem được bao nhiêu dòng để so sánh với các ngành khác"
Đây chính là điều để ta hiểu và đừng nên kỳ vọng quá nhiều vào khâu góp ý lúc này, khó có thể có những gì đột biến để có một văn kiện ĐH khác đi nhiều so với dự thảo.

Nhiều người nói giữa dự thảo văn kiện đưa ra xin ý kiến với văn kiện hoàn thiện cuối cùng không thay đổi mấy thì đó là sự thật và lý do chính là ở điểm này.

Chúng ta có một đặc điểm là khi nào bị “dồn đến chân tường” rồi thì mới bật dậy, tìm cách thoát ra. Chứ chừng nào vẫn còn thấy bình bình, vẫn có thể duy trì và có thể tăng trưởng được thì hầu như cái sức ép đòi hỏi đổi mới nó không đủ mức để buộc chúng ta phải có những thay đổi một cách căn bản, đột phá.

Trong lịch sử, cũng có trường hợp đặc biệt, như Đại hội VI năm 1986 cho đến những giờ phút chót thì báo cáo chính trị và văn kiện ĐH mới được sửa đổi căn bản và viết lại; và kỳ diệu thay chính Đại hội đó đã mở ra thời kỳ Đổi mới cho đất nước.

Đừng để thành "chiến lược mũi nhọn hình quả mít”

- Trong phát biểu khai mạc Hội nghị TƯ 12 hôm qua, Tổng Bí thư nhấn mạnh tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, tự phê bình và phê bình nghiêm túc. Người dân cũng đang mong chờ một không khí nói thẳng, nói thật, trung thực với chính mình, dám đối diện với những vấn đề còn tồn đọng và bức xúc của cuộc sống chứ không phải là những báo cáo đôi khi còn nặng về thành tích như đã từng xảy ra. Ông nghĩ sao về yêu cầu này?

Tôi chia sẻ với nhận định đó vì thực ra nó là kết quả của "tư duy nhiệm kỳ" mà chúng ta vẫn thường coi như là một căn bệnh rất khó khắc phục. Ai làm lãnh đạo cũng muốn nhiệm kỳ của mình tình hình phải rực rỡ, nhất là sắp đến Đại hội.

Cho nên vì sao các báo cáo vẫn thường có "màu hồng", vì sao không dám mổ xẻ những vấn đề gai góc, vì sao không dám gọi các vấn đề tường minh bằng đúng tên của nó… không phải là điều quá khó hiểu.

Ngay cả chuyện khủng hoảng kinh tế vừa qua, chúng ta vẫn thường nghe quen những câu như: “do thế giới khủng hoảng nên ảnh hưởng tới mình, rồi là mặc dù vậy nhưng mình đã vượt qua khủng hoảng nhanh hơn thế giới…”.

Nhưng yêu cầu phải tái cơ cấu nền kinh tế là xuất phát từ những vấn đề nội tại bản thân nền kinh tế của chúng ta. Tác động từ bên ngoài chẳng qua nó chỉ là “giọt nước tràn ly” làm cho cái yêu cầu tái cơ cấu nền kinh tế trở nên cấp bách hơn, rõ ràng hơn mà thôi.

Những vấn đề như đầu tư kém hiệu quả thì đâu phải là do khủng hoảng thế giới gây ra đâu? Nó là hệ quả của toàn bộ chính sách từ trước đến nay của chúng ta gây ra chứ?!

- Vậy theo ông thì điều quan trọng mà các văn kiện Đại hội cần có là gì?

Mô tả ảnh.
Ảnh: Thanh Nga
Tôi nghĩ rằng cái quan trọng nhất trong văn kiện là nêu được các tư tưởng chủ đạo, các nguyên tắc cơ bản, các chủ trương then chốt. Vì vậy, chúng ta nên bớt yếu tố “làm văn”, “tô hồng”, mà đi vào thực chất, nêu được quan điểm và chủ trương rõ ràng trong Văn kiện.

Tiếc rằng các báo cáo trình ĐH vẫn còn tình trạng quá dài vì cái gì cũng nói. Phần "làm văn" của các báo cáo vẫn còn nhiều và phần lớn chỉ nói chung chung, làm loãng đi cái nội dung quan trọng của văn kiện Đại hội.

Theo tôi thì chỉ cần một nửa số trang đó thôi là đủ để chuyển tải những nội dung cần thể hiện.

Chúng ta nên tập trung nói những vấn đề gì cần phải thảo luận, cần phải có quyết sách thì nói, và đã nói thì nói cho đến cùng, cho ra nhẽ; không cần phải nói tất cả mọi thứ từ A-Z để rồi cuối cùng chẳng nói được gì; cái gì cũng nói nên mới có chuyện "chiến lược mũi nhọn hình quả mít”.

Nói thì dễ, chứ làm thì khó đấy; vì ngành nào cũng chăm chắm xem trong Báo cáo đánh giá thế nào về ngành mình. Thậm chí có những đồng chí là Ủy viên TƯ, Bộ trưởng còn đếm số dòng trong phần đánh giá ngành mình phụ trách xem được bao nhiêu dòng để so sánh với các ngành khác

"Thời gian qua chúng ta đã tập trung giải quyết vấn đề “ý thức hệ” nhưng bây giờ phải quan tâm nhiều hơn đến vấn đề “lợi ích nhóm”

Về cách bố cục báo cáo, theo tôi nên “bổ dọc”, không nên “bổ ngang” như hiện nay. Đề cập đến vấn đề gì thì phân tích tình hình rồi đề xuất định hướng giải quyết luôn.

Cách lâu nay chúng ta vẫn hay làm là đánh giá tình hình trong một phần rồi mới nêu các giải pháp trong một phần khác tách riêng, thành ra tình hình và giải pháp nhiều khi chẳng ăn nhập gì với nhau.

Phải quan tâm giải quyết vấn đề "lợi ích nhóm"

- Trong phát biểu Tổng Bí thư có nói tập trung thảo luận những vấn đề cấp bách và cần thiết. Theo dõi sát về lĩnh vực kinh tế, theo ông thì đâu là những vấn đề cấp bách cần được đưa vào văn kiện để thảo luận?

Đầu tiên là về đề án tái cấu trúc nền kinh tế. Tôi cho rằng đề án này có tầm cao hơn Chính phủ có thể giải quyết một cách căn bản. Nó động chạm đến nhiều quan điểm, đường lối mà cấp cao hơn cần phải bàn bạc, quyết định.

Có hai cách quan niệm về vấn đề này. Nếu coi tái cấu trúc nền kinh tế chỉ là giải quyết hậu quả của khủng hoảng kinh tế thì chỉ cần một đề án của Chính phủ. Tôi thì không nghĩ như vậy.

Tái cấu trúc nền kinh tế là giải quyết những vấn đề cơ bản đã bị gác lại từ nhiều năm nay; khủng hoảng kinh tế chỉ làm nó trở thành cấp bách hơn mà thôi. Nếu vậy thì đây là một vấn đề của chiến lược phát triển, vấn đề tầm Đại hội Đảng toàn quốc phải giải quyết.

Vấn đề tiếp theo là đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước. Về việc này chúng ta đã làm được khá nhiều, nhưng đấy là những phần dễ, những việc còn lại phải giải quyết mới là phần khó nhất.

Nếu không có quyết tâm chính trị cao thì không làm được, vì có khi phải sửa đến cả Hiến pháp. Nhưng chính vì thế mà cần đưa ra Đại hội, tầm của Đại hội phải quyết những vấn đề như thế.

Trước đây, khi nhắc đến việc cổ phần hóa các DNNN thì rất sợ bị chạm đến các quan điểm về kinh tế nhà nước, sợ “phạm húy”… còn hiện nay, cái đang cản trở quá trình cổ phần hóa DNNN lại chính là vấn đề quyền lợi, nhất của đội ngũ quản lý doanh nghiệp.

Vì thế, thời gian qua chúng ta đã tập trung giải quyết vấn đề “ý thức hệ” thì bây giờ phải quan tâm nhiều hơn đến vấn đề “lợi ích nhóm”. Mà muốn giải quyết vấn đề “lợi ích nhóm” thì minh bạch hóa, công khai hóa là yếu tố cực kỳ quan trọng, mang tính quyết định.

"Đại hội VI năm 1986 cho đến những giờ phút chót thì báo cáo chính trị và văn kiện ĐH mới được sửa đổi căn bản và viết lại; kỳ diệu thay chính Đại hội đó đã mở ra thời kỳ Đổi mới cho đất nước"
Một vấn đề tôi thấy cũng rất cần phải lưu tâm nữa là Cải cách hành chính. Mặc dù nó không phải là vấn đề kinh tế, nhưng lại có ý nghĩa quyết định đến thành bại của chiến lược phát triển kinh tế đất nước.

Dễ thấy nhất là cải cách thủ tục hành chính; đây là vấn đề rất quan trọng mà chúng ta đã làm rất rầm rộ thời gian qua; nhưng cải cách thủ tục hành chính mới chỉ giải quyết “phần ngọn” chứ chưa phải là cái gốc của vấn đề hiệu lực, hiện quả của bộ máy hành chính nhà nước.

Vấn đề cơ bản là ở con người, ở bộ máy; không giải quyết những cái đó thì sẽ khó giải quyết được cơ bản vấn đề thủ tục hành chính, thủ tục hành chính vẫn như một thứ “cỏ dại”, cắt đi rồi nó lại mọc lên thậm chí còn nhiều hơn trước.

  • Cao Nhật - Thanh Nga